Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

ĐỨC PHẬT LÀM PHƯỚC

 Thời Phật còn tại thế, người đệ tử A-na-luật là anh em chú bác ruột với Ngài. Do quyết chí tu hành,nên A-na-luật bị mù cả hai mắt, bù lại, Ngài chứng được Thiên nhãn thông.
Một hôm, đức Phật thuyết giảng trong một pháp hội lớn, tất cả đại chúng đều say mê chăm chú lắng nghe, riêng Ngài A-na-luật thì ngủ gà, ngủ gật. Thấy thế, đức Phật gọi dậy và phương tiện độ người đệ tử:
- Này A-na-luật, có ai bắt buộc ông đi tu không? Hay vì ông thiếu nợ nhiều quá phải làm thuê, làm mướn vất vả nên trốn vào đây tu?
A-na-luật thưa:
- Bạch Thế Tôn, không phải như thế. Con là một Hoàng Tử đâu cần làm thuê, làm mướn và cũng không thiếu nợ ai. Con đi tu vì cảm kích công hạnh của Thế Tôn không thể nghĩ bàn. Con tu là để cầu giác ngộ giải thoát, nhưng vì tập khí xa xưa của con còn quá nhiều, nên nó che chướng làm con mê mờ trong lúc nghe Thế Tôn chỉ dạy.
Đức Phật bảo:
- Ông tu vì muốn giác ngộ và giải thoát sinh tử cho chính mình và cứu giúp chúng sanh, tại sao lại mê ngủ như vậy?
Nghe những lời cảnh tỉnh của Thế Tôn, Ngài ăn năn hổ thẹn, xin sám hối chừa bỏ tật ngủ gật và phát nguyện lớn: “Nếu đời này không thành đạo thì tôi không nhắm mắt.” Do quyết chí tu hành, ban ngày học hỏi làm việc, ban đêm siêng năng hành trì đến nỗi đôi mắt bị đỏ lên và sưng vù. Các thầy thuốc bảo Ngài ngủ lại bình thường thì mắt sẽ hết bệnh, nhưng Ngài vẫn cương quyết một lòng tu tập không ngủ nghỉ.
Đức Phật nghe chuyện, thân hành đến thăm và khuyên ông nên ngủ lại bình thường như trước, nhưng ông vẫn không chịu ngủ, cuối cùng đôi mắt của Ngài bị mù hẵn khi chưa chứng đạo. Tuy vậy, Ngài vẫn quyết tâm tinh tấn tu hành, chỉ một thời gian ngắn, Ngài chứng đắc Thiên nhãn thông với lực dụng không thể nghĩ bàn. Ngài có thể thấy suốt vũ trụ bao la như nhìn một trái xoài trong lòng bàn tay không bị chướng ngại của vật cản nào.
Một hôm, chiếc y của mình bị rách, Ngài muốn tự tay khâu lại, nhưng ngặt nỗi không thấy đường xỏ chỉ vào kim, Ngài lên tiếng nói rằng: “Có ai xỏ kim dùm tôi không?” Vừa lúc ấy đức Phật đi ngang nghe được, liền đến xỏ kim giúp người đệ tử mù của mình. Chúng ta thấy, một việc làm lành dù nhỏ nhoi đức Phật cũng không từ nan. Học chuyện xưa để mỗi người chúng ta bắt chước công hạnh của Như Lai Thế Tôn.
Việc làm của đức phật khiến chúng ta phải cảm phục, quý kính, bởi Ngài là bậc toàn giác, bậc thầy vĩ đại, mà vẫn không bỏ qua việc làm phước nhỏ.
Qua đó, chúng ta thấy người giác ngộ không từ chối bất cứ việc lành nào cho dù rất nhỏ khi đủ nhân duyên. Như vậy, chứng tỏ rằng sự có mặt của đạo Phật luôn đem đến lợi ích thiết thực cho con người, không gây tổn hại cho ai trên đời này cả dù rất nhỏ.
Chúng ta phải biết làm việc thiện dù lớn hay nhỏ, ta phải cố gắng vun trồng, cóp nhặt để như giọt nước lâu ngày đầy lu. Ngược lại, việc ác dù nhỏ mấy ta cũng phải tránh, không làm. Muốn gieo trồng phước đức, ta phải xa rời nghiệp ác và phát triển nghiệp lành.
Học hạnh xưa của Thế Tôn để ngày nay chúng ta cố gắng bắt chước gieo trồng phước đức. Một ngày làm việc thiện thì bao việc ác không thể có mặt. Như vậy gieo trồng phước đức có lợi cho ta rất nhiều, còn tham lam bỏn xẻn, ích kỷ, tâm địa nhỏ nhoi thì lúc nào cũng chịu nhiều đau khổ thiệt thòi.
Ta làm việc ác nhỏ lâu ngày tạo nên nghiệp ác lớn, ví như lỗ thủng nhỏ rỉ nước vào thuyền, nếu không chặn lại ngay từ đầu, đến một lúc nào đó nó sẽ nhấn chìm cả chiếc thuyền lớn.
Bởi chưng kiếp trước khéo tu
Kiếp này con cháu võng dù xênh xang.



Dân gian có câu: “Có phước làm quan.” Làm quan thì có điều kiện giúp đỡ gia đình, quyến thuộc, đó là lẽ đương nhiên trong cuộc đời. Theo quan niệm dân gian Việt Nam “một người làm quan cả họ được nhờ” là thế. Để thấy lời Phật dạy không sai, mỗi người chúng ta phải cố gắng gieo trồng phước đức. Do phước nghiệp không đồng nên con người có thân tướng, lời nói, vóc dáng khác nhau, không ai giống ai cả. Người giàu sang, kẻ nghèo khổ, người sống thọ, kẻ chết yểu, người thông minh, kẻ ngu dốt cũng từ đó mà ra.

http://www.chuabuuchau.com.vn/chuong/duc-phat-lam-phuoc_15359.html

PHƯỚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC / chua Buu chau



Công đức và phước đức khác nhau thế nào?
Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình rồi từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc.
Còn phước đức là diệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất, tinh thần giúp người bớt khốn khổ v.v…tạo nên những nhân tốt.
Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dật ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.
Để hiểu rõ công đức và phước đức khác nhau thế nào, chúng ta cùng nghe câu chuyện thời đức Phật:
Có một Tỳ-kheo tu hành đã chứng quả A-la-hán, không còn bị tham, sân, si chi phối trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người chứng quả A-la-hán sẽ bất động trước mọi nghịch cảnh cuộc đời.
Do nhiều đời tích lũy công đức nên vị Tỳ-kheo này trong đời hiện tại được duyên tu hành chứng quả, nhưng do đời trước không làm phước đức gieo duyên với mọi người, lại còn phỉ báng, ngăn cản người khác thực hành bố thí, cúng dường, nên sanh ra trong đời này Ngài phải chịu khổ đau một thời gian dài. Ngài bị mẹ bỏ rơi lúc 3,4 tuổi, được ngài Xá Lợi Phất đem về nuôi cho xuất gia đầu Phật. Và cuộc đời tu hành của Ngài rất cam go, khổ nhọc, thiếu thốn trăm bề, cho đến khi chứng quả A-la-hán mà Ngài vẫn chưa được một bữa cơm nào thật no đủ. Do nghiệp đời trước ngăn cản người bố thí, cúng dường mà đời nay Ngài phải chịu lãnh quả thiếu ăn suốt đời như vậy.
Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.
Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu, do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo, nên không buồn đau sầu khổ. Thân này tuy chịu quả thiếu thốn đói khát, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại trước mọi hoàn cảnh.
Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức, đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.
Còn công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét, cho nên vị Tỳ kheo ấy dù bị đói khát, thiếu thốn nhưng không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó. Và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức.
Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của công đức và phước đức chúng ta hãy nghe câu chuyện thiền như sau:
Tổ Bồ-đề-đạt-ma là vị tổ thứ 28 ở Ấn Độ, do nhu cầu hoằng pháp nên Ngài đã đến Trung Hoa gặp vua Lương Võ Đế. Vua hỏi: “Trẫm thường cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống rất nhiều vậy có công đức không?
Tổ đáp: “Thảy đều không công đức.”
Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ hỏi tiếp. Tại sao không công đức?
Tổ đáp: Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệp ở cõi trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.
Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả, nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh, “tá hỏa tam tinh.” Bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.
Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Bởi đa số người đời thường lầm chấp thân và tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình là thật nên làm cái gì cũng tìm cách chiếm đoạt, vơ vét bồi bổ cho cái thân xác để hưởng thụ cảm xúc. Vua Lương nghĩ rằng, cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức, nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình, mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật.
Bởi vì nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Nhà vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh, vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Còn chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, để sống lại với tâm sáng suốt của mình (Phật tánh). Từ đó, nhà vua sẽ không còn có bóng dáng của sợ hãi, khổ đau mà hằng an lạc thảnh thơi chan hòa tình thương đến muôn loài.
Cho nên đến với đạo Phật có hai hình thức: tại gia và xuất gia. Song xuất gia là số ít, còn đại đa số là người tại gia. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, thấy tất cả mọi người đều là người thân, người thương của mình, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy người xuất gia nêu cao tinh thần hy sinh vì Tam Bảo, còn người tại gia ngoài việc lo cho gia đình và xã hội, thấu hiểu lý nhân quả, nghiệp báo cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu học và hành trì.
Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm. Bởi Ngài là vua một nước, trăm công, ngàn việc, nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.
Người người theo Phật tu nhân thiện
Mười phương thế giới dứt binh đao.
Việc làm của vua Lương Võ Đế quả thật là tuyệt vời đối với cuộc sống thế gian, nhưng vì Ngài lầm chấp cho rằng đó là cứu cánh của đạo Phật nên mới hỏi Tổ: “Con cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống có công đức không?”
Tổ đáp: Đều không công đức.
Vua hỏi tiếp: Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa?
Tổ đáp: Rỗng rang không Thánh.
Thánh đế đệ nhất nghĩa là chỉ cho thật tướng vô tướng rỗng lặng sáng suốt thanh tịnh nơi mỗi con người. Bởi vua chạy theo danh tự và hình tướng bên ngoài nên không nhận ra trong mình có ông Thánh đang hiện diện sờ sờ. Vì vậy vua hỏi:
- Đối diện trẫm là ai?
-Tổ đáp: không biết!
Đến thời Lục Tổ Huệ Năng, có người đọc đoạn đối đáp của vua Lương Võ Đế với Tổ Bồ-đề-đạt-ma mới hỏi, Tổ đáp: Thật không có công đức, chớ nghi lời bậc Thánh nói. Vì vua Lương Võ Đế không hiểu được yếu nghĩa khai thị trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”nên cho rằng cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh bố thí là công đức, thực chất đó chỉ là làm phước, không thể đem phước đổi công đức được.
Công đức là do tu tâm mà được; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết.
Còn những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của trời, người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ, song hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình, sanh tâm cống cao, ngã mạn, nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn họ mà còn sanh tâm coi thường khinh rẽ họ, không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu nữa.
Vì vậy, là người con Phật, chúng ta phải biết quân bình, một mặt tích lũy phước báu. Nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật, dù có bố thí đúng dường, làm nhiều phước thiện, cũng đều là công đức cả, vì họ làm trong vô tâm.
Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích, không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu ta biết kết hợp làm phước và tu tâm, thì khổ đau sẽ không có mặt trong hành trình cam go của cuộc đời.

http://www.chuabuuchau.com.vn/chuong/phuoc-duc-va-cong-duc_15348.html

Công Đức Và Phước Đức / Ban Biên Tập TVHS


Tôi thường hay đến chùa và thỉnh thoảng có nghe vài người bạn đạo nói rằng: "Nếu kiếp này chỉ lo tu phước mà không lo tu huệ, thì sự tu phước của kiếp này sẽ là tai họa cho kiếp thứ ba. Như vậy ý này là thế nào? Và kiếp này có nên tu phước không hay là để tránh kiếp thứ ba khỏi bị tai họa thì phải ngưng tu phước mà chỉ tu huệ thôi? Và tu huệ là tu cái gì? Kính mong quý vị chỉ dẫn giùm cho chúng tôi hiểu
Trước khi trả lời thư của vị thính giả, chúng tôi mời quý vị nghe lại bốn câu kệ trong kinh Pháp Cú:
Không làm các điều ác
Nên làm các việc lành
Tự thanh tịnh tâm ý
Đó là lời Phật dạy.
Qua bốn câu kệ trên, chúng ta thấy rằng tiến trình tu tập giải thoát của đạo Phật được thể hiện qua nhiều giai đoạn.
Không làm điều ác, nên làm điều lành là hai bước đầu tiên trong việc tu tập, tuy thế chúng ta cần biết rõ ràng thế nào là Thiện, thế nào là Ác. Đối với đạo Phật, có thể nói, tiêu chuẩn để xác định Thiện hay Ác căn cứ vào hai yếu tố hạnh phúc và khổ đau. Hành động, từ lời nói, ý nghĩ đến việc làm, nếu đem lại hạnh phúc cho chúng sinh là Thiện và hành động gây khổ đau cho chúng sinh là Ác. Nếu chỉ đem lại hạnh phúc cho cá nhân mình mà gây khổ đau cho chúng sinh khác cũng là việc làm ác. Tránh gây khổ đau cho người cũng tức là tránh tạo nghiệp ác cho mình.
Như vậy khi chúng ta làm những việc thiện lành như bố thí tiền bạc, tài sản, bố thí Pháp, chia sẻ những ưu tư, những khổ đau của người khác là chúng ta đang tu phước. Tu phước chính là gieo những hạt giống lành, hạt giống thiện, tựa như việc cất giữ tiền của vào trương mục tiết kiệm ở ngân hàng để sau này dùng dần, tức được hưởng niềm hạnh phúc an lạc. Vì niềm an lạc hạnh phúc là điều ai ai cũng mong muốn, cho nên việc gầy dựng niềm an vui hạnh phúc cho người cũng tức là tạo nhân hạnh phúc an vui cho mình, và từ đó, nhân rộng ra cho xã hội, cho chúng sinh. Niềm an lạc hạnh phúc không thể ngẫu nhiên đến với chúng ta, mà là do công phu tránh dữ làm lành, tránh tội làm phước bồi đắp hàng ngày.
Phước giúp chúng ta đẩy lùi những nghiệp xấu ác của nhiều kiếp trổ ra và có công năng giúp cho chúng ta sáng suốt, thấy rõ những sự việc sai trái trên đường đời, hoặc giúp chúng ta thoát khỏi những hoàn cảnh nguy hiểm đến tính mạng. Có những việc chúng ta tưởng chừng như buông xuôi hàng phục, vậy mà nhờ phước rồi cũng vượt thoát được. Trong sáu hạnh tu của nhà Phật gồm Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí Tuệ, thì Bố thí là hạnh đầu tiên. Nhìn vào đó chúng ta sẽ thấy được việc gieo trồng nhân phước là quan trọng dường nào.
Thưa quý thính giả,
Con đường tu tập của Phật tử không chỉ giới hạn vào việc tu phước, vào việc làm lành tránh ác để kiếp sau khá hơn kiếp trước, vì như thế vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh tử của thế giới tương đối, chưa phải là mục đích chính của đạo Phật. Đạo Phật xuất hiện trên đời là vì có sự giác ngộ của đức Phật, từ sự giác ngộ này, đức Phật chỉ con đường cho chúng sinh tu để giác ngộ như Ngài, tự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Con đường giải thoát này phải thực hiện bằng trí tuệ.
Như vậy tu Tuệ hay tu giải thoát là bước thứ ba của tiến trình tu tập, còn gọi là “Tự tịnh kỳ ý”.
Tu Tuệ là công phu tu tập các phương pháp làm cho tâm lắng xuống, nhằm dứt trừ vọng tưởng để thành tựu được Trí Tuệ Bát-nhã. Bát-nhã là phiên âm của tiếng Phạn paramita, có nghĩa là "qua bờ bên kia", bờ bên kia là Niết Bàn thanh tịnh, bờ bên này là đời sống tương đối. Trí tuệ này không phải là kiến thức do học hỏi kinh sách, không phải là trí thông minh bình thường.
Do vì mỗi người có một tâm khác nhau nên cũng khó nói có một pháp tu nào áp dụng chung cho tất cả mọi người được, vì vậy đức Phật đã chỉ dạy nhiều pháp khác nhau để mỗi người tùy căn cơ áp dụng. Một số những pháp môn này như sau:
- Quán tưởng: chú tâm quán sát sâu xa về một đề mục rút trong giáo lý.
- Trì chú: chú tâm tụng niệm những câu chú gồm những chữ bí ẩn.
- Niệm Phật: chú tâm niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà.
- Tham thiền: chú tâm tham một công án hoặc một thoại đầu.
Nhưng, dù là pháp nào chăng nữa thì việc thực hành cũng là trình tự đưa tâm từ trạng thái nhiều vọng tưởng về trạng thái ít vọng tưởng rồi về nhất tâm, về sau từ từ đạt đến vô tâm, rồi liễu tâm, ngưng dứt dòng suy nghĩ miên man, liên tục của ý thức. Nhà Phật quan niệm rằng sự suy nghĩ liên tục, miên man, của ý thức, còn gọi là "tâm viên ý mã", tức là tâm ý vọng tưởng chạy nhấy như con vượn, con ngựa, có tác hại là đã che mờ mất Chân Tâm, Trí Tuệ Bát Nhã.
Hành giả nên chọn một pháp môn thích hợp với căn cơ của mình, và khi thực hành thì nên theo tông chỉ của pháp môn đó mới có kết quả. Dù thực hành theo pháp môn nào cũng nên có một vị thầy hướng dẫn.
Thưa quý thính giả,
Trở lại câu hỏi của vị thính giả: "Nếu kiếp này chỉ lo tu phước mà không lo tu tuệ, thì sự tu phước của kiếp này sẽ là tai họa cho kiếp thứ ba", như vậy ý này là thế nào? ”
Chúng tôi xin thưa rằng, theo luật Nhân Quả, tu phước trong kiếp này sẽ được quả tốt trong kiếp tới. Kiếp tới không hẳn là kiếp thứ hai mà có thể là ở một kiếp vị lai nào đó. Bởi vì nhân phải hội đủ duyên thích hợp mới trổ quả.
Do nhân tu phước ở kiếp này mà kiếp tới có thể sẽ được làm một nhân vật có quyền cao chức trọng, kẻ hầu người hạ, giầu sang sung sướng. Do được hưởng thiện báo đó mà người ta dễ buông lung trong trường dục lạc. Khi ấy thì dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo, cũng khó làm cho họ nghe theo vì họ đang trong cơn say sưa mê đắm với dục vọng. Vì vậy nhà Phật cảnh giác người tu Phước rằng trong khi tu Phước, phải đồng thời tu Trí Tuệ, học tập giáo lý nhà Phật, dành chút thời giờ để thực tập tĩnh tâm, như thế là Phước Tuệ song tu. Chứ nếu giầu sang sung sướng, mà không có nhân hiểu biết giáo lý, không giữ gìn giới hạnh cho đàng hoàng, thì cũng rất dễ trở thành con người phóng túng, dễ tạo nghiệp xấu, thì một kiếp nào đó trong tương lai sẽ gặt quả báo xấu tuỳ theo nghiệp đã tạo. Nên mới gọi là tai hoạ cho kiếp thứ ba là thế.
Nói tóm lại tiến trình tu giải thoát của đạo Phật được thể hiện qua nhiều giai đoạn. Việc lấy thiện diệt ác, cứu giúp chúng sinh, bố thí cúng dường, chỉ là bước đầu trong con đường tu tập để đi đến giải thoát giác ngộ. Tuy là bước đầu nhưng lại là bước căn bản. Người ta thường nói “đi buôn cần vốn, đi tu cần Phước”. Cho nên việc gieo trồng nhân phước rất là quan trọng. Riêng đối với những người muốn tiến xa hơn, muốn hoàn toàn giác ngộ, giải thoát, thì bản thân hành giả phải tự mình thanh tịnh tâm, chấm dứt dòng vọng tưởng miên man che mờ Chân Tâm, để Trí Tuệ Bát Nhã, cũng còn gọi là Phật Tánh, hoặc Chân Tâm được hiển lộ.
Thưa quý thính giả,
Chúng tôi xin lược trích câu chuyện về vấn đề "gieo nhân lành được hưởng thiện báo", do đạo hữu Viên Nhẫn kể trong bài "Phước nghiệp cho hành trình tiến tu", như sau:
"Nhân đây chúng tôi (chúng tôi ở đây tức là đạo hữu Viên Nhẫn) xin kể lại một kinh nghiệm mới xảy ra cho đạo hữu N.C., một Việt kiều ở Pháp . Tháng 11-2000 , trong thời gian ở VN cô đã tham gia nhiều công tác từ thiện, nhất là mua thật nhiều cá để phát tâm cho hạnh phóng sinh. Sau khi lên núi tham quan một ngôi chùa ở Vũng Tàu trở về thì cô lâm trọng bệnh. Vì vốn có sẵn bệnh tim nên cô đã phải dùng một dược chất cực mạnh. Tuy nhiên thuốc đã không giúp được gì cho cô trong lúc này, hơi thở cô trở nên ngắn lại, cô ói mửa liên miên , đầu óc choáng váng , mở mắt ra không thấy gì chung quanh, mà chỉ thấy một cụm đen cuốn tròn như đưa vào một đường hầm đen tối, cô thấy thật là ngột ngạt, không dám mở mắt ra nữa. Sau đó cô không còn biết gì. Người nhà khẩn cấp đưa cô vào bệnh viện và theo như họ kể lại, thì lúc bấy giờ dù rằng rất yếu nhưng không hiểu tại sao cô lại có những bước đi thật vững vàng, nhanh hơn những người đang dìu cô đi, thành ra cô đã được kịp thời chạy chữa trong phòng cấp cứu. Sau này cô kể lại là bình nhật cô thường niệm Phật, nhưng lúc đó cô đã không niệm được, nhưng chuyện cô đi phóng sinh lại hiện ra trước mắt cô, nào là hình ảnh đau thương của những con ếch sắp bị chặt đầu với hai tay chắp lạy như van xin, nào là chuyện những ngày đến chợ cá thật sớm để đón mua những sinh vật sắp bị hành quyết. Tâm từ bi của cô đã khởi lên trong cận tử nghiệp, thiện pháp đã bộc phát thật mạnh trong cô và như chúng tôi đề cập về công năng của một người thường hay làm phước ở đoạn trên, cô đã nhận được luồng sóng gia hộ để vượt qua cái chết. Đây thật là sự vi diệu của giáo lý nhân quả, phước quyết định cho mọi sự, chúng ta nên tận dùng thân người này để sống một đời vị tha, đó là con đường phải trải qua cho vơi đi bao nghiệp tội mà chúng ta đã phạm trong quá khứ".
Đạo hữu Viên Nhẫn cũng góp ý về hạnh Pháp thí như sau:
"Hạnh pháp thí gồm có truyền giảng chánh pháp cho người nghe hay trợ duyên cho việc chuyển lăn bánh xe pháp, làm cho Phật pháp ngày càng lan rộng. Sự trợ duyên này gồm có : ấn tống Kinh sách, phát hành băng , tài trợ cho quý Tăng, Ni sinh đi học, hay yểm trợ cho những khoá tu học. Gieo nhân duyên nghe pháp cho người là công đức cao nhất trong các hàng bố thí, nhờ nhân duyên pháp thí này mà quả báo mang lại cho đời sau là sớm gặp được những bậc thức giả dẫn dắt trên con đường cầu tìm học đạo. Giúp cho một người có được thiện duyên nghe pháp là giúp họ một cơ hội tiến gần đến Tam Bảo, xa dần những hệ lụy của bóng đêm nghiệp chướng , mở đường cho chuyến vượt thoát dòng sinh tử luân hồi.
Một điểm cần nêu ra ở đây để không gây ra ngộ nhận, chúng tôi không bao giờ phản bác việc tu Huệ. Phước Huệ song tu vẫn là điều tốt nhưng đừng bao giờ xem nhẹ việc làm phước , vì phước là nền tảng cho Trí Huệ, là tiến trình cho con đường vượt thoát dòng sinh tử."
Trong cuốn Bố Thí Ba La Mật, thày Thích Trí Siêu dạy:
"Nhờ bố thí đời này qua đời khác, Bồ Tát gặt được nhiều phước đức, do đó Bồ Tát tin nơi Tam Bảo, nhờ tin nơi Tam Bảo, Bồ Tát phát tâm học chánh pháp, nhờ học chánh pháp, Bồ Tát phá trừ tà kiến và vô minh, nhờ phá trừ vô minh mà trí huệ tăng trưởng. . .
Tất cả mười phương chư Phật đều bắt đầu con đường giác ngộ bằng một hạnh đầu tiên là bố thí"
Thưa quý thính giả,
Như quý vị đã thấy, bố thí vẫn là điều kiện cốt tủy cho người Phật tử, không những thế, còn là điều cốt tủy cho tất cả mọi người nói chung. Có câu: "Người CHO "được" nhiều hơn người NHẬN". Bởi vì người NHẬN chỉ được chút vật chất, nhưng người CHO được cả một niềm vui tinh thần, và cái thiện nhân bố thí sẽ còn lưu lại tới sau này.
Tuy vậy, đồng thời với bố thí là tu Phước, chúng ta cũng cần phải trau giồi giáo lý và mỗi ngày dành chút thời giờ để tĩnh tâm, đó là tu Huệ, tu Trí Tuệ. Chúng ta chỉ cần ngồi lặng lẽ tại một nơi an tĩnh, nếu tại nơi thờ Phật thì tốt, nếu không thì có thể ở bất cứ chỗ nào tĩnh mịch, góc nhà, góc vườn, vân vân, rồi tự mình theo dõi hơi thở của chính mình, mỗi lúc thở ra thở vô đều nhận biaết rõ, thì đó cũng là chúng ta đang đặt viên đá đầu tiên trên con đường Tu Tuệ. Cũng như mỗi ngày chúng ta phải tắm rửa thân thể, tâm chúng ta cũng cần có chút thời giờ hoàn toàn an tịnh để tự thanh lọc.
Trong lịch sử và văn học sử, những câu chuyện đẹp về những con người sống một cuộc đời hào sảng, đầy nghệ thuật, đều là những người biết buông xả, biết bố thí và biết nhìn cuộc đời một cách phóng khoáng. Tác giả Vũ Thế Ngọc trong tác phẩm Trà Kinh, có kể câu chuyện huyền thoại về một người đàn bà nghèo nhưng hào hiệp đã vô tình sáng tạo ra loại danh trà Long Tỉnh như sau:
"Nếu nói rằng huyền thoại là một hình thức ca tụng những gì người ta yêu quý, thì trà Long Tỉnh là một thí dụ điển hình. . .
. . . Truyện kể rằng có một bà cụ chỉ trồng được một số gốc trà nhưng tính tình rất hào hiệp và lương thiện, vẫn dùng trà của mình thiết đãi tất cả những nhân công hái trà quanh vùng. Ngày kia có một phú thương đi ngang, sau khi được uống trà, ông hết sức ca tụng bà cụ và trách rằng người phúc đức như bà cụ thì Trời phải cho giầu. Bà cụ chỉ cười, nói rằng tạm no và không đói rách đã là may mắn lắm rồi.. Ông phú thương muốn giúp bà cụ nên hỏi mua cái chậu đá khổng lồ cũ kỹ ngoài sân. Chậu đá không hiểu có từ bao giờ và bị chôn lấp bởi hàng ngàn vạn lá trà hàng xóm rơi sang bao nhiêu năm. Bà cụ nhận bán và hẹn hôm sau ông phú thương cho người và xe đến dời đi. Hôm sau ông phú thương lại lấy đồ thì bà cụ đã quét dọn sạch sẽ, nhân tiện lấy số lá mục và bùn ẩm đó đắp vào mấy gốc trà của mình. Không ngờ đám lá trà thâm niên đó có một đặc tính kỳ diệu, chỉ vài ngày sau, các gốc trà đột nhiên sinh đợt mới, hương vị lạ lùng. Bà cụ không dấu một mình mà chia cành, chia hạt cho dân quanh vùng để cùng trồng một loại trà tuyệt diệu. Thế là từ đó cả vùng cùng vang danh có loại trà tuyệt phẩm".
Ban Biên Tập TVHS

Sự khác biệt công đức và phước đức


Công đức cùng phước đức có khác biệt, chúng ta cần phải nhận biết cho rõ ràng. Công là công phu, phải có công phu tu học chân thật. Công phu thu hoạch được gọi là công đức.
Ví dụ trì giới có công, thiền định là đức do giới. Bạn trì giới, do trì giới mà được định, cái giới đó gọi là công đức. Nếu bạn trì giới tốt nhưng không được định thì trì giới cũng có lợi ích, đó là phước đức, không phải công đức. Bạn trì giới tinh nghiêm thì bạn được phước báu của nhân thiên, đời sau hưởng phước, nhưng đó không phải công đức.
Công đức có thể đoạn phiền não, có thể chứng được bồ đề, còn phước đức thì không. Phước đức không thể đoạn phiền não cũng không thể chứng bồ đề, chỉ có thể mang đến cho bạn phước báu. Do đó chúng ta nhất định phải phân biệt rõ ràng công đức và phước đức.
Tu định có công, trí tuệ liền khai. Khai huệ là đức. Tu định mà không thể khai huệ, cái định đó là phước đức, không phải công đức. Phước đức ở trong trời Tứ Thiền, không thể đoạn kiến tư phiền não, không thể siêu việt ba cõi sáu đường. Cho nên công đức cùng phước đức khác biệt nhau rất lớn.

Làm sao tu công đức? Công đức không hề rời khỏi phước đức. Tu phước không dính mắc chính là công đức. Tu phước mà dính mắc là phước đức. Ta tu tài bố thí, hy vọng tương lai được đại phú, vậy thì liền biến thành phước đức. Nhưng nếu ta tu tài bố thí “tam luân thể không”, không có bất cứ mong cầu nào thì liền biến thành công đức. Khi không có bất cứ mong cầu nào, thì ở ngay trong cuộc sống thường ngày của bạn cũng không thiếu bất cứ thứ gì, vì trong công đức có phước đức, nhưng trong phước đức không có công đức.
Chúng ta không luận tu phước như thế nào, thông thường nói ba loại bố thí: tài bố thí, pháp bố thí, vô uý bố thí, phải bố thí sạch trơn. Then chốt là tâm địa phải thanh tịnh, không dính vào tướng bố thí, không nên thường hay nghĩ đến ta có ân đức đối với người, có rất nhiều việc tốt đối với họ, không nên có ý niệm này, vì khởi ý niệm này thì liền biến thành phước báu, không thể được định.
Định là gì? Định là tâm thanh tịnh. Bố thí tuyệt đối không nhận báo thì tâm mới được thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh phước báu bao lớn? Tận hư không biến pháp giới là chỗ chúng ta hưởng phước. Bạn bố thí chỗ này, thì không chỉ ở ngay đây hưởng phước, mà bạn đến bất cứ nơi nào, m%C

www.lieuquanhue.vn

QUY Y



Đạo sư Padmakara cõi Uddiyana, Ngài xuất hiện như một hóa thân làm người. Công chúa Tsogyal xứ Kharchen hỏi Ngài rằng: Thưa Đạo sư, xin rủ lòng từ bi chỉ dạy cho chúng con nền tảng của mọi sự thực hành Pháp, phương cách để chấm dứt sanh và tử, một nhân nhỏ mà có lợi lạc bao la, một phương pháp dễ áp dụng và ít khó khăn.
Đạo sư hóa thân trả lời: Tsogyal, quy y là nền tảng cho mọi sự thực hành Pháp. Tam bảo là sự nâng đỡ cho mọi thực hành Pháp. Phương cách để đưa sanh và tử đến chỗ chấm dứt là quy y cùng với những phương diện phụ của sự việc ấy.
Công chúa Tsogyal hỏi: Nghĩa cốt lõi của quy y là gì ? Định nghĩa của nó ra sao ? Khi phân chia, có bao nhiêu loại quy y ?
Đạo sư trả lời: Nghĩa cốt lõi của quy y là chấp nhận Phật, Pháp, Tăng là thầy, con đường và những người đồng hành để thực hành con đường với con, và rồi hứa rằng ba cái đó là quả con sẽ đạt đến. Như thế quy y nghĩa là một lời hứa hay chấp nhận. Tại sao một sự chấp nhận như vậy được gọi là quy y ? Nó được gọi là quy y bởi vì sự chấp nhận Phật, Pháp và Tăng là sự nâng đỡ, nương tựa, và bảo vệ hay cứu giúp cho chúng sanh khỏi sự sợ hãi lớn lao của những khổ đau và che chướng. Đấy là nghĩa cốt lõi của quy y.
Định nghĩa của quy y là tìm sự che chở khỏi những khủng khiếp của ba cõi thấp và khỏi quan kiến thấp kém tin vào một tự ngã trong năm uẩn vô thường[11]  như các triết gia phi Phật pháp chủ trương.
Khi phân chia thì có ba loại: quy y cách bên ngoài, quy y cách bên trong và quy y cách bí mật.
QUY Y CÁCH BÊN NGOÀI
Công chúa Tsogyal hỏi: Về quy y cách bên ngoài, nguyên nhân muốn thọ quy y là gì ? Người ta quy y đối tượng nào ? Loại người nào được thọ quy y ? Cách thức nào để thọ quy y ? Người ta thọ quy y với thái độ đặc biệt nào ?
Đạo sư Padma trả lời: Nguyên nhân của thọ quy y là sợ hãi những khổ đau của vòng sanh tử, tin vào Tam Bảo là chỗ để quy y và hơn nữa, chấp nhận Tam Bảo là đối tượng quy y và là những bậc bảo hộ của sự quy y. Do ba điều này mà người ta có ý định thọ quy y. Nói chung người ta muốn quy y vì sợ chết.
Có nhiều người thậm chí không thấy rằng nửa cuộc đời đã trôi qua và không nghĩ đến tương lai dù chỉ một khoảnh khắc. Họ không có sự quy y.
Nếu con sẽ không chết hay nếu con chắc chắn có lại kiếp làm người, con sẽ không cần quy y. Tuy nhiên sau khi chết và chuyển kiếp, có những thống khổ tràn khắp trong những cõi thấp.
Người ta quy y đối tượng nào ? Con cần quy y Tam Bảo. Ai có thể chấm dứt sanh tử ? Chỉ có vị Phật toàn giác là vị hoàn toàn thoát khỏi mọi khuyết điểm và đã viên mãn mọi đức hạnh. Thế nên chỉ có Pháp Ngài chỉ dạy và Tăng đoàn giữ gìn giáo lý của Ngài mới có thể chấm dứt được khỏi vòng sanh tử của ta và những người khác. Thế nên ba cái ấy là những đối tượng duy nhất để quy y, con cần quy y Tam Bảo.
Nói chung, có nhiều người xem những lời dạy của những bậc giác ngộ không hơn gì những lời của một thầy bói, và có những người khi kẹt quá thì nương nhờ vào hồn linh ma quỷ. Những người như vậy thật khó có sự quy y.
Loại người nào quy y ? Đó là những người có quan tâm, sùng mộ, đức tin và nghĩ đến những công đức của Tam Bảo. Người ta cần có ba thái độ đặc biệt này :
Vì vòng sanh tử không có khởi đầu và kết thúc, tôi phải tách lìa nó ngay lúc này ! 
Những thần thánh chẳng phải Phật giáo không phải là những đối tượng quy y của tôi ! 
 
Duy chỉ có trạng thái toàn giác của Phật quả là đối tượng quy y chân thật của tôi.
Cách thọ quy y diễn ra như thế này.
Khi thọ quy y, chỉ môi niệng suông thì vô ích. Đó giống như sự lẩm bẩm trống rỗng, không chắc sẽ dẫn con đến đâu.
Cách thọ quy y là sao ? Con phải quy y với thân, ngữ, tâm thành kính. Con phải quy y với ba ý nghĩ: sợ hãi những cõi thấp của sanh tử, tin vào những ban phước của Tam Bảo, và niềm tin kiên định cùng với lòng bi.
Người tin đời này tốt đẹp và đời sau cũng tốt đẹp thì chỉ chết sau khi vừa định thực hành Pháp.
Điều ấy chưa đủ, con cần biết những nghi thức quy y.
Người ta quy y với thái độ đặc biệt nào ? Con cần quy y với một cảm thức trách nhiệm đối với lợi lạc của những người khác. Con cần quy y với thái độ này, vì con sẽ không đạt được giác ngộ trọn vẹn và đích thực chỉ nhờ từ chối sanh tử và mong muốn niết bàn.
Để giải thoát tất cả chúng sanh khỏi đau khổ của sanh tử , 
Tôi sẽ thọ quy y cho đến khi tôi và tất cả chúng sanh trong ba cõi điều thành tựu giác ngộ tối thượng !
 
Nói chung, mọi mong ước điều là mong ước nhị nguyên. Quy y mà không thoát khỏi chấp trước nhị nguyên thì không đủ.
Bấy giờ công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư: Quy y cách bên ngoài kèm theo bao nhiêu loại tu hành ?
Đạo sư trả lời: Đã quy y con phải khéo léo thực hành tám sự tu hành để ngăn chặn sự cam kết của con khỏi hư hỏng.
Bà hỏi: Tám sự tu hành đó là gì ?
Ngài trả lời: Trước hết có ba tu hành đặc biệt: Đã quy y Phật con không nên lễ lạy những thần thánh khác. Đã quy y Pháp con cần thôi gây hại cho chúng sanh. Đã quy y Tăng, con không nên kết giao với người ngoại đạo. Đấy là ba tu hành đặc biệt.
Giải thích thêm: Trước hết đã quy y Phật, không lễ lạy những thần thánh khác nghĩa là nếu con lễ lạy những vị thần thế gian như Mahadeva, Vishnu, Maheshvara hay những vị khác thì nguyện quy y của con bị hủy hoại.
Thứ hai, đã quy y Pháp, thôi gây hại chúng sanh, nghĩa là nguyện quy y của con nhất định bị hủy hoại nếu con thực hiện sát sanh. Nguyện ấy bị hư hại nếu con đánh đập chúng sanh khác vì giận dữ, bắt chúng làm nô lệ, xỏ mũi chúng, nhốt chúng trong chuồng, cắt lông làm áo, v.v...
Thứ ba, đã quy y Tăng, không kết giao với người ngoại đạo nghĩa là nguyện của con bị hư hại nếu con kết bạn với người chấp giữ cái thấy và hạnh của chủ nghĩa thường biến hay đoạn kiến. Nếu cái thấy và hạnh của con phù hợp với họ, nguyện quy y của con bị hủy hoại.
Bất cứ trường hợp nào, mọi thực hành Pháp đều bao hàm trong quy y. Người có tà kiến không có hiểu biết này.
Đây là năm tu hành tổng quát:
1- Khi bắt đầu thực hành, hãy làm một lễ cúng dường lớn với nhiều đồ ăn thức uống tốt nhất. Bày trước các đấng Tôn Quý vào ngày mười bốn và khẩn cầu các Ngài đến hưởng cúng dường. Sau đó làm lễ cúng dường vào ngày rằm. Những cúng dường này có bốn loại: cúng dường lễ lạy, cúng dường phẩm vật, cúng dường tán thán và cúng dường thực hành.
Thứ  nhất là cúng dường lễ lạy: đứng thẳng và chấp hai tay. Tưởng nhớ những công đức của chư Phật và chư Bồ Tát. Hãy quán tưởng đầu con chạm vào chân có dấu hiệu Pháp luân của các Ngài khi con đảnh lễ.
Tiếp theo là cúng dường phẩm vật: hãy bày những đồ cúng dường không phải là sở hữu của người nào (như hoa) và những đồ cúng dường được quán tưởng, với chính thân con cũng vậy.
Hãy cúng dường những lời tán thán với âm điệu du dương.
Cúng dường thực hành là phát nguyện rằng những thiện căn từ sự trau dồi Bồ đề tâm của tánh Không và lòng bi bất khả phân là để cho giác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sanh.
Đạo sư Padma nói: Tam Bảo không cần một chút gì trong chén nước hay sự tôn kính. Mục tiêu của việc cúng dường là để cho con nhận được những tia sáng quang minh của chư Phật.
Về việc cúng dường những thức ăn uống tốt nhất, hãy làm ba mâm và trì tụng OM AH HUM ba lần. Hãy tưởng tượng đồ cúng dường của con nhờ đó mà trở thành một đại dương cam lồ. Sau đó, quán tưởng Bổn Tôn của con được bao quanh bởi vô số chúng hội Tam Bảo và tưởng tượng con dâng cúng cam lồ này, khẩn cầu tất cả các Ngài thọ nhận. Nếu con không thể dâng cúng theo cách này, hãy chỉ làm một cúng dường vừa và nói: Xin Tam Bảo chấp nhận cho!
Nếu con không có gì để cúng dường, ít nhất con phải dâng những chén nước mỗi ngày. Nếu không làm thế, nguyện quy y của con sẽ hư hao.
Tam Bảo không cần những phẩm vật cúng dường như chúng sanh. Lễ cúng thực phẩm là để con tích tập công đức mà không trụ chấp.
2- Tu hành thứ hai là không bỏ Tam Bảo cao cả dù con có mất thân, mất mạng hay mất một vật gì quý báu.
Không từ bỏ quy y dù vì chính thân thể con: thậm chí có ai dọa móc mắt, chặt chân, cắt mũi, cắt tai hay cánh tay con, con cứ để họ làm còn hơn là phải từ bỏ Tam Bảo.
Không từ bỏ quy y dù với cái giá là đời sống của con: thậm chí có ai dọa giết con, con cứ để họ làm còn hơn là phải từ bỏ Tam Bảo.
Không từ bỏ quy y vì một món quà tặng quý giá : thậm chí nếu con được hứa cho toàn thể thế giới với châu báu để đổi lấy sự từ bỏ quy y. con cũng chớ chối bỏ quy y.
3- Tu hành thứ ba là bất kể cái gì xảy đến cho con, dù bệnh tật, nhọc nhằn, thoải mái, hạnh phúc hay đau buồn, con nên lập một mạn đà la với năm loại đồ cúng và dâng cúng Tam Bảo, rồi phát nguyện quy y và khẩn cầu như sau:
Đạo sư thiêng liêng, bậc trì giữ kim cương vĩ đại, tất cả chư Phật và chư Bồ Tát, xin lắng nghe con! Cầu mong bệnh tật của con và bất cứ cái gì gây ra bởi những hồn linh và những thế lực bất thiện đều không xảy đến. Xin ban an bình, thiện lành và tốt đẹp.
Ngoài những điều này cũng nên tích tập công đức bằng cách tụng tán kinh điển lớn tiếng và làm những lễ cúng dường, vì những thực hành như vậy là những cái căn bản để quy y. Nếu không được như ý thì chớ sanh những tà kiến, nghĩ rằng Tam Bảo không ban phước, Pháp không thật ! Trái lại hay nghĩ tôi sẽ cảm thấy tốt hơn khi nghiệp xấu của tôi đã cạn kiệt. Không nên theo đuổi những cách khác như bói toán, phù thủy, mà chỉ nên thực hành quy y.
4-  Dù con đi về phương hướng nào, hãy nhớ chư Phật và chư Bồ Tát, hãy cúng dường và quy y. Chẳng hạn, nếu ngày mai con đi về hướng đông, thì hôm nay làm một mạn đà la và cúng dường, quy y chư Phật, chư Bồ Tát của phương đó.
Con nên khẩn cầu như sau trước khi đi:
Đạo sư bậc trì giữ kim cương, tất cả chư Phật và chư Bồ Tát, xin hãy nghe con ! Xin ngăn chặn những chướng ngại do người và loài chẳng phải người gây ra và làm cho mọi sự đều tốt lành từ lúc con rời khỏi nơi này cho đến nơi con đến. 
Nếu không làm điều này vào ngày trước khi khởi hành thì con phải làm vào lúc khởi hành.
 
Vào lúc quy y, nếu con không nhớ thọ quy y trong mười hoặc bảy bước khi đi qua ngưỡng cửa thì sự quy y của con bị hao tổn.
 
Một khi tâm con đã giao phó cho sự quy y, con sẽ không thể bị lầm lạc.
5-  Hãy nghĩ đến những phẩm tính tốt của quy y và thực hành nó thường xuyên. Đã quy y Tam Bảo hãy xem đó là nơi chốn của hy vọng và niềm tin. Hãy giữ gìn Tam Bảo như nguồn quy y duy nhất và hãy khẩn cầu các Ngài. Hãy cầu sự ban phước của Tam Bảo.
Hãy nghĩ rằng biểu trưng của Tam Bảo, hoặc một bức hình, một tượng tạc, một bức vẽ, một cái tháp, một cuốn kinh, chính là Pháp thân. Có thể khi lễ lạy, cúng dường, cầu nguyện thình lình con chứng ngộ bản tánh của Pháp thân. Dù điều đó không xảy ra, bằng cách đảnh lễ cúng dường Tam Bảo và tạo nên một mối nối kết nghiệp báo, người ta sẽ trở thành đệ tử của một vị Phật tương lai.
Đạo sư Padma nói: Bất kể cái gì sanh khởi trong con như những đức hạnh và an lạc của những bậc giác ngộ, con hãy xem đó là những ban phước của Thầy con và Tam Bảo. Bằng cách suy nghĩ như vậy mà con sẽ nhận được những ban phước. Bất kể những vấn nạn và những khổ sở nào con gặp, hãy xem chúng là nghiệp xấu riêng của con. Điều này sẽ chấm dứt tất cả nghiệp xấu của con. Nói chung, nếu con không giao phó cho Tam Bảo mà nắm giữ những suy nghĩ tà kiến thì Tam Bảo không ban phước! Và có thể con không thoát khỏi những địa ngục thấp nhất.
Công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư: Quy y có những phẩm tính tốt nào ?
Đạo sư trả lời: Quy y có tám phẩm tính tốt.
1-  Con gia nhập chúng hội Phật tử. Đã quy y Tam Bảo con được gọi là một Phật tử. Không quy y con không ở trong chúng hội Phật tử cho dù con có tự xưng là một con người thánh thiện, một đại thiền giả hay một vị Phật bằng xương bằng thịt.
2-  Con trở thành một pháp khí thích hợp cho mọi lời nguyện như giải thoát của cá nhân (biệt giải thoát giới) chẳng hạn. Còn nếu con mất nguyện quy y thì mọi giới nguyện căn cứ trên đó đều bị hủy hoại. 
Để phục hồi, chỉ thiết lập lại giới nguyện quy y là đủ. Nghĩa là con cúng dường và thọ quy y trước sự hiện diện của Tam Bảo là đủ.
 
Con cũng cầu nguyện quy y trước bất kỳ lời nguyện nào, từ những giới nguyện cho một ngày đến những lời nguyện của Mật thừa. Thế nên quy y được xem là cái khiến cho con thành một nền tảng thích hợp cho mọi lời nguyện.
3-  Nguyện quy y Tam Bảo làm giảm và chấm dứt mọi nghiệp chướng đã tích lũy trong tất cả những đời quá khứ. Nghĩa là những che chướng của con sẽ hoàn toàn cạn kiệt nhờ quy y đặc biệt, trong lúc thọ quy y tổng quát thì những nghiệp chướng sẽ giảm. 
Lại nữa khi một cảm nhận đích thực về quy y sanh ra nơi con, những nghiệp chướng sẽ chấm dứt rốt ráo, trong khi chỉ những lời nguyện quy y thì đã làm chúng giảm bớt.
 
Hơn nữa, nếu con quy y vào mọi lúc, khi đi, đứng, nằm, ngồi, thì những nghiệp chướng sẽ hoàn toàn hết sạch, trong khi chỉ thỉnh thoảng quy y thì chúng sẽ giảm bớt.
4-  Con sẽ có công đức bao la. Những phước đức thế gian như sống thọ, khỏe mạnh, rạng rỡ uy nghi, giàu có lớn đều phát xuất từ quy y. Sự giác ngộ vô thượng siêu thế gian cũng có từ quy y.
5-  Con sẽ miễn nhiễm với sự tấn công của người và phi nhân và với những chướng ngại trong đời sống này. Có nói rằng khi tám quy y chân thật đã sanh ra trong con thì không có chướng ngại nào do con người có thể làm tổn hại được con trong cuộc đời này.
6-  Con sẽ thành tựu bất cứ điều gì con mong muốn. Khi tâm quy y chân thật đã sanh ra trong con, bất cứ điều giì con dự định đều không thể không thành. Tóm tắt, có nói rằng tin vào những đối tượng quy y, con sẽ nhận được bất cứ điều gì con mong muốn như khi khẩn cầu một viên ngọc như ý.
7-   Con sẽ không rơi vào các cõi thấp, những số phận xấu hay những nẻo hư hỏng. ba cõi thấp là cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Những số phận xấu ám chỉ sanh ra ở những nơi không có Phật Pháp, giữa những bộ lạc biên địa sơ khai. Những nẻo hư hỏng ám chỉ những triết học phi Phật Pháp. Thế nên để tránh khỏi rơi vào những chỗ ấy, người ta chỉ cần quy y.
Trong những giáo lý Đại thừa của Mật giáo có nói rằng người ta có thể giác ngộ trong chỉ thân này  và trong chỉ đời này. Điều này nghĩa là không nghi ngờ gì con sẽ nhanh chóng giác ngộ. Thế nên cần phải bỏ tà kiến nghĩ rằng chỉ quy y một lần là đủ. Con cần phải quy y trở đi trở lại cả ngày lẫn đêm. Rồi con chắc chắn sẽ giác ngộ nhanh chóng.
Đạo sư Padma nói: Nếu con hết mình trong việc quy y, con không cần thực hành nhiều giáo lý khác. Không nghi ngờ gì con sẽ đạt quả vị giác ngộ. 
Công chúa Tsogyal lại hỏi Đạo sư: Thực hành quy y thực tế là sao? 
 
Đạo sư trả lời: Áp dụng quy y thực tế như sau. Trước hết, hãy tưởng nguyện:
Con sẽ đặt tất cả chúng sanh trong giác ngộ viên mãn.
Để làm điều đó con sẽ thực hành tích tập phước đức và trí hiệ, tịnh hoá những che chướng và xóa tan những trở ngại. Vì mục đích này, con xin quy y từ ngay giây phút này cho đến khi giác ngộ.
Tối thượng trong hết thảy loài người, tất cả chư Phật mười phương, con và tất cả chúng sanh vô biên xin quy y từ giây phút này cho đến khi đạt giác ngộ vô thượng.
Tối thượng trong hết thảy, không dính nhiễm, giáo Pháp của muời phương, con và tất cả chúng sanh vô biên xin quy y từ giây phút này cho đến khi đạt giác ngộ vô thượng.
Tiếp theo chú tâm lập lại ba lần:
Con quy y Phật 
Con quy y Pháp
 
Con quy y Tăng
Rồi cầu khẩn ba lần:
Cầu xin Tam Bảo che chở cho con khỏi những sợ hãi của đời này. Xin che chở cho con khỏi những sợ hãi của ba cõi thấp. Xin che chở cho con khỏi lọt vào những nẻo hư hỏng !
Khi sắp kết thúc hãy nói:
Qua những thiện căn này của con, nguyện con đạt được Phật quả để lợi lạc cho chúng sanh!
Con nên hồi hướng theo cách này.
Công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư hóa thân Padmakara: Phương pháp nguyện quy y là gì ? 
Đạo sư trả lời: Người ta cần đảnh lễ và nhiễu quanh vị Thầy có nguyện quy y, dâng Ngài hoa và nói như sau:
Thưa Thầy, xin hãy lắng nghe con. Thưa chư Phật và chư Bồ Tát trong mười phương, xin hãy lắng nghe con. Kể từ giây phút này cho đến khi giác ngộ, con[12]  (tên) xin quy y bậc tối thượng của hết thảy loài người, muôn triệu chư Phật pháp thân viên mãn vô thượng. 
Con quy y cái tối thượng trong hết thảy an lạc, không dính  nhiễm, những Giáo Pháp Đại thừa.
 
Con quy y cái tối thượng trong hết thảy chúng hội, Tăng già của những Bồ Tát cao cả bất thối chuyển.
Vào lúc lặp lại lần thứ ba lời này, con sẽ đắc giới nguyện. Hãy đảnh lễ và rải hoa. Rồi thực hành sự tu hành giải thích ở trên và tận lực trong quy y.
Đây là giải thích và áp dụng cách quy y bên ngoài.
Công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư: Đã quy y thì người ta được bảo vệ như thế nào ?
Đạo sư trả lời: Bất kỳ ai có những thực hành quy y đúng đắn như giải thích ở trên thì nhất định được Tam Bảo bảo vệ. Vì vậy, nếu con sợ lạc vào một nẻo lang thang và cầu nguyện gặp được một con đường chân chánh, chắc chắn con sẽ gặp. Con cũng chắc chắn được bảo vệ khỏi những sợ hãi của cuộc đời này.
Khi mọi phẩm tánh của quy y đã sanh nơi con, con chớ nên bằng lòng mà dừng lại. Hãy tăng thêm nữa những phẩm tính đã sanh trong con. Con cần sử dụng mọi phẩm tính sanh trong tâm con để gom góp những tích tập và tịnh hóa những che chướng. Khi sự vận dụng như vậy được phát sanh, toàn bộ khả năng đã được phát động.
Tất cả những người cảm thấy không có khuynh hướng làm phát sanh trực tiếp những phẩm tính sâu sa như (quán chiếu) tánh Không hay mạn đà la của những Bổn Tôn trong con người họ thì vẫn có thể tịnh hoá những che chướng và gom góp những tích tập chỉ bằng sự quy y.
Bấy giờ con có thể tự hỏi rằng, nếu người ta được bảo vệ khi quy y như vậy, thì có phải chư Phật sẽ xuất hiện và dẫn dắt tất cả chúng sanh hay không? Câu trả lời là chu Phật không thể tự tay đem tất cả chúng sanh ra khỏi sanh tử.  Nếu các Ngài làm như vậy được, thì chư Phật với lòng đại bi và những phương tiện thiện xảo đã giái thoát cho  tất cả chúng sanh không trừ một ai rồi.
Rồi con có thể tự hỏi, vậy người ta được bảo vệ bằng cái gì? Câu trả lời là người ta được bảo vệ bằng (sự thực hành) Pháp.
Khi quy y đã sanh ở trong con, con không cần thực hành những giáo lý khác. Không thể nào con không được bảo vệ bởi lòng bi của Tam Bảo. Điều đó giống như con chắc chắn không sợ hãi khi con đã có một đội vệ sĩ tuyệt hảo.  
Đạo sư Padma giải thích quy y cách bên ngoài cho công chúa Tysogyal như thế.
QUY Y CÁCH BÊN TRONG
Công chúa Tsogyal xứ Kharchen hỏi Đạo sư hoá thân Padmakara,
Người ta quy y những đối tượng bên trong nào? Loại người nào thọ quy y? Người ta quy y bằng cách thức hay phương tiện nào? Với thái độ đặc biệt và kéo dài bao lâu? Cần hoàn cảnh đặc biệt nào? Mục tiêu là gì và những phẩm tính nào?
Đạo sư trả lời: Về những đối tượng quy y, con cần quy y Bổn Tôn, Guru và Dakini.
Người thọ quy y là người đã thọ môn Mật thừa.
Cách thức hay phương pháp là quy y với thân, ngữ, tâm sùng mộ và thành kính.
Về thái độ đặc biệt của thọ quy y, con phải nhận thức vị Thầy là một vị Phật, không từ bỏ Bổn tôn dù phải từ bỏ mạng sống và thường xuyên cúng dường Dakini.
Về thời gian, con cần quy y từ khi phát Bồ đề tâm trong lễ quán đảnh cho đến khi đạt đến trạng thái một bậc Kim Cương Trì.
Về hoàn cảnh, con cần quy y với lòng sùng kính Mật thừa.
Về mục tiêu hay những đức hạnh của quy y, nó làm cho con trở thành một pháp khí thích hợp cho Mật thừa và để nhận những ban phước phi thường.
Công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư: Về quy y cách bên trong, người ta cần những tu hành gì?
Đạo sư trả lời: Có tám tu hành. Trước hết có ba tu hành đặc biệt:
1.  Đã quy y Guru, con không được ý xấu đối với Ngài hoặc thậm chí có ý định nhạo báng Ngài. 
2.  Đã quy y Bổn Tôn, con không được gián đoạn sự thiền định về hình tướng Bổn Tôn hay sự trì tụng Ngài.
 
3.  Đã quy y Dakini, con không được bỏ những ngày cúng dường định kỳ.
 
Năm tu hành tổng quát như sau:
1.  Hãy dâng cúng phần đầu tiên của bất cứ thứ gì con ăn hay uống như là cam lồ. Cúng dường phần đó khi quán tưởng Guru trên đầu con. Cúng dường khi quán tưởng Bổn Tôn nơi trung tâm trái tim và Dakini nơi trung tâm rốn. Con cần tu hành trong việc chia phần thực phẩm như vậy.
2.  Dù đi về hướng nào, hãy cầu nguyện Guru, Bổn Tôn và Dakini. Hãy quán tưởng Guru trên đỉnh đầu con. Hãy quán tưởng chính con là Bổn Tôn và Dakini cùng những hộ pháp là những vệ sĩ của con. Đây là tu hành khi đi.
3.  Dù phải mất mạng hay tay chân, con cần tu hành xem Guru cũng thân thiết như trái tim mình. Bổn Tôn thân thiết như đôi mắt mình, và Dakini thân thiết như thân thể mình.
4.  Bất cứ điều gì xảy ra, như bệnh tật, khó khăn hay dễ chịu, vui hay buồn, con cần cầu khẩn Guru, cúng dường cho Bổn Tôn và lễ tiệc cho Dakini. Ngoài việc này con không nên chạy theo những phương thức khác như bói toán và phù phép.
5. Nhớ những đức hạnh của Guru, Bổn Tôn và Dakini, con phải quy y thường xuyên. Do quy y Guru, những che chướng đều bị xoá sạch. Do quy y Bổn Tôn, thân đại ấn[13]  sẽ đạt được. Do quy y dakini, con sẽ nhận được những thành tựu (siddhi).
Công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư Padma: Quy y cách bên trong có được những đức hạnh nào?
Đạo sư Padma trả lời: Do quy y Guru, con được bảo vệ khỏi những trói buộc của tâm ý niệm. Những chướng  ngại của vô minh và ngu si được xoá sạch. Sự tích tập quán chiếu và tỉnh giác được hoàn thiện, và con sẽ nhận được thành tựu chứng ngộ tự phát.
Do quy y Bổn Tôn, con được bảo vệ khỏi những tri giác thường tục, gom góp được sự tích tập trí tuệ tự hữu và đạt được sự thành tựu đại ấn.
Do quy y Dakini, con sẽ được bảo vệ khỏi những chướng ngại và hồn linh xấu ác. Trở ngại đói khổ của ngạ quỷ được loại bỏ, sự tích tập buông bỏ và thoát khỏi những bám níu được hoàn thiện và sẽ đạt được sự thành tựu hoá thân đại lạc.
Công chúa Tsogyal hỏi Đạo sư: Quy y cách bên trong thực tế là gì?
Đạo Sư Padma đáp: Trước tiên con nên phát khởi nguyện vọng hướng đến giác ngộ tối thượng. Sau đó quán tưởng guru, yidam, dakini ngự trên mặt trời, mặt trăng, và hoa sen trên bầu trời phía trước con và nói ba lần:
Guru tôn quý, gốc rễ của dòng truyền, 
Bổn Tôn Yidam, đấng khởi nguyên của mọi thành tựu,
 
Dakini, đấng ban ân phước tối diệu,
 
Con xin kính lễ ba gốc.
Sau đó, hãy tập trung không xao lãng tâm con vào guru, yidam, dakini và lập lại:
Con quy y nơi guru, yidam, và dakini.
Kế tiếp khẩn nguyện như sau:
Chư guru, yidam, và dakini, cầu xin ban cho con ân phước của thân, khẩu, ý các Ngài! 
Xin ban những quán đảnh trên con! Xin ban những thành tựu thông thường và tối thượng! Xin mở lòng từ của Ngài đến con, đứa con sùng mộ của Ngài!
Sau đó hóa tán guru vào đỉnh đầu con, yidam vào giữa ngực con, và dakini vào giũa rốn con.
Công Chúa Tsogyal hỏi vị Thầy: Phương pháp nguyện thọ quy y cách bên trong như thế nào?
Vị Thầy đáp: Nghi thức nguyện thọ quy y cách bên trong lần đầu như sau: quan trọng là phải nhận được quán đảnh. Vẫn giữ được tự thân quán đảnh là nhận được quy y. Nếu con thật sự thọ quy y mà không nhận quán đảnh, hãy đảnh lễ và đi nhiễu quanh vị guru, dâng cúng hoa cho Ngài và nói:
Thưa Thầy, xin lắng nghe con. Tập hội chư Bổn Tôn, chư dakini, và quyến thuộc của mandala Bổn Tôn, xin hãy lắng nghe con. Ngay từ giờ cho đến khi đạt được cấp bâïc vidyadhara tối thượng của mahamudra, con tên là _______ xin thọ quy y nơi gốc của dòng truyền, tất cả những guru thiêng liêng và siêu phàm. 
Con xin thọ quy y nơi tất cả tập hội của Bổn Tôn, suối nguồn của mọi thành tựu.
 
Con xin thọ quy y nơi tất cả dakini, những đấng ban ân phước tối diệu.
Nguyện thọ quy y đạt được sau khi niệm bài này ba lần. 
Đó là nghi thức thọ giới nguyện. Ta đã giải thích quy y cách bên trong.
QUY Y CÁCH BÍ MẬT
Công Nương Tsogyal, Công chúa xứ Kharchen, hỏi vị Thầy: Về thọ quy y cách bí mật, người ta thọ quy y nơi đối tượng nào? Loại người nào thọ quy y? Người ta thọ quy y theo cách thức hay phương pháp nào? Người thọ quy y với thái độ đặc biệt nào? Quy y trong thời gian nào? Thọ quy y trong hoàn cảnh nào? Có mục đích và đức hạnh gì?
Vị Thầy trả lời: Về phần những đối tượng của quy y cách bí mật, con phải thọ quy y trong kiến (quan điểm), thiền (suy niệm), và hành (hành động).
Loại người thọ quy này phải là người có những khả năng cao nhất, mong muốn đạt được giác ngộ.
Về phương pháp hay cách thức, con phải thọ quy y nhờ kiến, thiền, hành và quả. Nghĩa là con phải quy y với kiến xác quyết, thiền định có kinh nghiệm, và hành vi có vị bình đẳng.
Về phần thái độ đặc biệt, kiến thoát khỏi tham dục, có nghĩa không mong muốn nào khác hơn là đạt Phật quả hay dứt bỏ luân hồi. Sự thiền định thoát khỏi trụ vào sự tập trung trên hình tướng cụ thể và không rơi vào thiên kiến, thì không thể mô tả bằng ngôn từ bình thường. Hành động thoát khỏi lấy, bỏ, tức là không rơi vào bất cứ phạm trù nào.
Về thời gian là kể từ lúc quy y cho đến khi đạt giác ngộ. 
Về hoàn cảnh là thọ quy y mà không muốn tái sanh nào nữa.
 
Về mục tiêu hay đức hạnh là đạt được giác ngộ viên mãn ngay trong kiếp sống này.
 
Công Chúa Tsogyal hỏi: Về quy y cách bí mật, người ta cần tu hành những thực hành nào?
Đạo Sư Padma đáp: Có ba tu hành tiên khởi: 
1. Về cái thấy (kiến) sở hữu sự chứng ngộ: con phải tu hành trong xác quyết rằng không có Phật quả nào khác cần thành tựu, vì tất cả chúng sanh và chư Phật đều có cùng nền tảng (Phật tánh). Con phải tu hành trong xác quyết rằng hình tướng xuất hiện và tánh Không là bất khả phân, qua chứng ngộ rằng những hình tướng đó và tâm là không khác biệt.
2. Về tu hành trong sự thiền định có kinh nghiệm: Không nên để tâm hướng ngoại, đừng tập trung vào trong, mà hãy tu hành để tâm được nghỉ ngơi tự nhiên, và thoát khỏi điểm quy chiếu.
3. Về phần hành động: Hãy tu hành kinh nghiệm không gián đoạn. Dù vào tất cả mọi lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều không có gì để thiền định về, tu hành không xao lãng dù chỉ trong một khoảnh khắc.
Sau đây là tám tu hành thông thường:
1. Không từ bỏ vị Thầy cho dù chứng ngộ tâm con là Phật. 
2. Không gián đoạn những thiện căn cho dù con chứng ngộ những hình tướng là tâm.
 
3. Tránh làm những hành động xấu dù là vi tế nhất, cho dù con không còn sợ cõi địa ngục.
 
4. Không phỉ báng bất kỳ giáo lý nào, cho dù con không còn nuôi dưỡng bất cứ hy vọng đạt giác ngộ nào.
 
5. Không nên kiêu mạn hay khoe khoang cho dù con chứng ngộ những đại định cao cấp.
 
6. Luôn luôn cảm thấy có lòng bi với chúng sanh, cho dù con hiểu được chính mình và người khác là bất nhị.
 
7. Hãy tu hành nơi chốn nhập thất (hoang vắng), cho dù con nhận ra luân hồi và niết bàn là không hai (bất nhị).
Công Chúa Tsogyal hỏi vị Đạo Sư Hóa Thân: Về thọ quy y cách bí mật, người ta được ban sự bảo vệ nào và đức hạnh gì?
Đạo Sư Padma đáp: Đã thọ quy y nơi kiến, con được bảo vệ khỏi cả hai thường kiến và đoạn kiến, tà kiến và chấp chặt được loại bỏ, sự tích lũy của pháp tánh quang minh được viên mãn, và những thành tựu bất tận của thân, khẩu, ý sẽ đạt được.
Đã thọ quy y nơi thiền định, cái thấy (kiến) cũng sẽ bảo vệ sự thiền định. Những che chướng của sự chấp chặt và tập khí sâu dày được tiêu trừ, sự tích lũy tính hợp nhất bất nhị được tích tụ và những thành tựu của xác quyết và giải thoát bổn nguyên sẽ đạt được.
Đã thọ quy y nơi hành: Con được bảo vệ khỏi hạnh kiểm hư hỏng và tà kiến của chủ nghĩa hư vô. Những che chướng của đạo đức giả và sự ngu dại được tiêu trừ, sự tích lũy của không- bám chấp trong khi bận rộn được hoàn thiện, và sự thành tựu của việc chuyển bất kỳ những gì được kinh nghiệm thành sự chứng ngộ sẽ đạt được.
Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư Padma: Cách thực hành thực tế của thọ quy y cách bí mật là gì?
Vị Thầy trả lời: Kiến, trong sự thoải mái tự nhiên, phải thoát khỏi tham dục và không thiên vị, cực đoan.
Sự thiền định phải thoát khỏi những tập trung vào những hình tướng cụ thể và những điểm quy chiếu. Điều này không thể diễn tả bằng bất cứ ngôn từ thông thường nào.
Có thể nói rằng, không nên đặt tâm con hướng ra ngoài, cũng không tập trung nó vào bên trong; hãy an nhiên tự tại không chỗ trụ.
Hãy an nghỉ không xao lãng trong trạng thái của kinh nghiệm bất tận vào lúc đi, đứng, nằm, hay ngồi.
Những cảm giác về sự trọn vẹn, hoan hỷ, trống không, phúc lạc, hay trong sáng, tất cả đều là những kinh nghiệm tạm thời. Không nên xem chúng là những điều kỳ diệu.
Khi những trạng thái của tâm xảy ra như xáo động, che ám, hay hôn trầm, hãy sử dụng những kinh nghiệm này như sự tu hành. Bất cứ những gì xảy ra như vậy, không nên xem chúng là những khuyết điểm.
Công Chúa Tsogyal hỏi: Phương pháp thọ nguyện quy y cách bí mật như thế nào?
Đạo Sư đáp: Đảnh lễ và nhiễu quanh vị Thầy, dâng cúng hoa cho Ngài. Người đệ tử phải áp dụng tư thế ngồi kiết già và với lòng bi thọ nguyện trau dồi bồ đề tâm vì lợi ích của chính mình và người khác.  
Sau đó nhìn chăm chú lên bầu trời không chuyển động tròng mắt, hãy để cho tỉnh giác của con an nghỉ – một cách tỉnh thức, sinh động, trong sáng, và tỏa khắp – thoát khỏi sự bám trụ vào người thấy biết và cái được thấy biết. Chính điều này là cái thấy có xác quyết, thiền định có kinh nghiệm, và hành động có liên kết! Như vậy nó nên được chỉ ra. Hãy thiền định như đã nhắc đến ở trên đây.
Đây là giải nghĩa về thọ quy y cách bí mật.
Đạo Sư Hoá Thân Padma nói: Đây là hướng dẫn khẩu truyền của Ta, trong đó những giáo huấn nội, ngoại, và bí mật, những cái thấy cao và thấp, Mantra thừa và thừa Triết học[14]  được cô đọng thành một gốc duy nhất trong cách thọ quy y ngoại, nội và bí mật.
Khi áp dụng nó một cách tương ứng, con sẽ hướng về thực hành Pháp, việc thực hành Pháp của con sẽ trở thành con đường, và con đường của con sẽ chín muồi thành quả. Công chúa xứ Kharchen, con hãy hiểu như vậy.
Điều này hoàn tất giáo huấn về thực hành thọ quy y như con đường của hành giả.
SAMAYA. ẤN NIÊM, ẤN NIÊM, ẤN NIÊM.[15]


QUY Y VÀ LỄ LẠY




“Pháp quy y là pháp cao thượng nht”
                                              
Trước khi quy y các con phải xác định được động cơ quy y của mình. Phải hiểu được rằng chúng ta không muốn luân hồi sinh tử nữa, chúng ta cần sự gia trì của Tam Bảo và mong muốn được nương tựa vào Tam Bảo. Sau đó  ta xác định đối tượng quy y là Tam Bảo, Guru rồi phát nguyện quy y.

Việc phát nguyện quy y trong Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa có sự khác biệt. Mục đích quy y của Tiểu Thừa là đạt sự giải thoát cho bản thân mình và quy y chỉ trong cuộc đời này. Mục đích quy y của Đại Thừa là đạt giải thoát cho mình và tất cả chúng sinh và quy y cho tới khi đạt giác ngộ viên mãn. Đối với Đại Thừa không những quy y vì giải thoát cho bản thân mình mà còn vì hết thẩy hữu tình chúng sinh. Như vậy mục đích và thời gian đều khác nhau.

Khi quy y, chúng ta cần phải biết mình quy y vào dòng truyền thừa nào. Dòng truyền thừa chính là dòng giáo pháp được truyền liên tục không gián đoạn từ đức Phật Thích Ca cho đến chúng ta. Nói về quy y, nhiều người lầm tưởng rằng nếu chúng ta sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo thì chúng ta là Phật tử. Điều này không đúng. Chúng ta có phải là Phật tử hay không tùy thuộc vào chúng ta có thật sự nương tựa vào Phật hay không. Nếu tâm chúng ta lúc nào, làm gì, ở đâu cũng hướng hết cả về Tam Bảo, nương tựa vào Phật Pháp Tăng thì đó là một dấu hiệu chứng tỏ chúng ta là một đệ tử của đức Phật, của Guru.

Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa có rất nhiều vị Phật, trong Kim Cương thừa có rất nhiểu vị Bổn Tôn. Và các vị xuất hiện không phải là để làm mẫu cho chúng ta may thangka hay tạc tượng rồi để lên bàn thờ mà thờ cúng, khấn vái một cách hình thức. Thờ cúng hay cúng bái một cách hời hợt, hình thức không phải là mục đích của hành giả. Mục đích của một hành giả chân chính đó là tu tập để chuyển hóa tâm. Các con phải khéo biết phân biệt.

Nhân nói qua về việc thờ cúng, ta sẽ nói thêm một chút về việc thờ cúng người đã mất. Cách tốt nhất để chúng ta có thể chăm lo đối với người đã qua đời đó là dùng Pháp. Khi người qua đời là người thân hay vị thầy của chúng ta, với bổn phận là quyến thuộc hoặc đệ tử điều tốt nhất chúng ta nên làm là tổ chức những lễ puja Việc này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho chúng ta và cho người đã mất. Nếu có thể, các con hãy làm lễ puja hàng tháng, còn không thì một năm một lần cũng không sao. Theo lệ thường sau khi hỏa táng người thân chúng ta cất tro đó vào hũ và để thờ ở nhà. Thật sự mà nói, điều này là không nên. Những nghi thức đối với người đã chết cần phải rất cẩn thận và chi tiết, không thể sai sót được. Sự tùy tiện của chúng ta chính là một vấn đề rất nghiêm trọng, ảnh hưởng không tốt đến người đã mất và chính bản thân.
 
Khi đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên Ngài dạy về Tứ Diệu Đế. Lần chuyển pháp luân thứ hai đức Phật trao truyền giáo lý Tánh Không. Giáo lý Tánh Không vốn dĩ thâm diệu chúng sinh thông thường khó mà hiểu được. Lần chuyển pháp luân thứ ba đức Phật giảng về Như Lai Tạng.
Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều có cơ hội thành Phật nhưng do mê mờ nên không nhận ra. Sỡ dĩ đức Phật giảng dạy cho chúng ta rất nhiều pháp môn là vì Ngài tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sinh. Với mỗi loại ô nhiễm của tâm chúng sinh đức Phật dạy một Pháp môn đối trị. Chúng sinh có 84.000 loại che chướng phiền não, thế nên kinh sách hay nói tới 84.000 Pháp môn.

Trong Tam Tạng kinh điển có ba phần: Kinh (Sutra), Luật (Vinaya), Luận (Abidharma). Đối với dính mắc nơi tâm đức Phật dạy Kinh. Đối với dính mắc nơi thân đức Phật dạy Luật. Đối với vô minh đức Phật dạy Luận. Sau rốt đức Phật dạy đến Vajrayana (Kim Cang Thừa). Đức Phật đưa ra bốn môn đối trị như vậy nhằm chuyển hóa các loại tâm chúng sinh từ thô đến vi tế. Đức Phật trụ thế 80 năm và không để lại kinh sách gì. Những kinh sách được truyền đến chúng ta hiện giờ là do những cuộc kết tập kinh điển của các đệ tử Ngài.

Và chính đức Phật cũng đã từng tiên tri rằng sau khi Ngài nhập diệt giáo lý của Ngài sẽ đến Tây Tạng và phát triển rất mạnh mẽ tại đất nước này. Thời vua Trisong Deutsen đã có rất nhiều kinh sách Phật giáo được dịch sang tiếng Tây Tạng. Guru Rinpoche và nhiều vị học giả khác ở Ấn Độ cũng được mời sang Tây Tạng vào thời gian này. Thế nên Tây Tạng có đầy đủ kinh sách của ba thừa của Phật giáo: Tiểu Thừa, Đại thừa Hiển Giáo và Đại thừa Mật giáo.

Tiếp sau đây, ta sẽ nói qua một chút về sự khác biệt giữa Hiển Giáo và Mật Giáo. Các giáo lý và pháp môn của Hiển Giáo chủ yếu giúp cho các hành giả thanh lọc, tịnh hóa các nghiệp chướng cũng như các xúc tình tiêu cực  thô. Còn Mật Giáo thì thanh lọc, tịnh hóa ngay cả các nghiệp chướng cũng như các xúc tình tiêu cực vi tế nhất. Một cách phân chia khác nữa đó là: Hiển Giáo là Nhân Thừa (Thừa Nguyên Nhân), Mật Giáo là Quả Thừa (Thừa Kết Quả). Sự khác biệt quan trọng nữa giữa Mật Giáo và Hiển Giáo là sự khác biệt về thời gian. Đối với Hiển Giáo, kể cả Đại Thừa và Tiểu Thừa, đều mất rất nhiều thời gian để đạt đạo quả. Mật Giáo, trái lại, là một con đường rất ngắn để đạt tới giác ngộ giải thoát.
 
Chúng ta cần có hiểu biết thật đầy đủ về đối tượng quy y. Thông thường ở Đại Thừa Hiển Giáo thì đối tượng quy y là Tam Bảo - Phật, Pháp, Tăng. Trong Kim Cang Thừa có năm đối tượng quy y. Đối tượng đầu tiên là Phật - vị thầy tâm linh. Thứ hai là Pháp - con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát. Thứ ba là Tăng - người bạn tâm linh. Hai đối tượng khác nữa của Kim Cang Thừa là Guru và Yidam. Guru (Đạo sư) là tập hội của mọi quy y. Yidam (Bổn Tôn) là gốc rễ của mọi thành tựu.

Khi quy y và xác định đối tượng của quy y là Phật thì chúng ta phải biết được các phẩm tánh của một vị Phật. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bản thân Ngài lúc đầu cũng là một con người bình thường như chúng ta, nhưng Ngài đã phát nguyện sẽ tu để trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác vì lợi ích của hết thảy chúng sinh. Khi Ngài phát nguyện như vậy và trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm qua ba a tăng kỳ kiếp với vô lượng những nỗ lực. Cuối cùng Ngài đã đạt tới giác ngộ viên mãn trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Những phẩm tánh của một vị Phật là bất khả tư nghì, vượt ngoài sự hiểu biết của chúng ta,  tạm nói đến hai khái niệm Thập Lực và Tứ Vô Úy. (Mt trong Thp Lc là mt v Pht có kh năng biếđược vô lượng kiếp trước và kiếp sau ca chúng sinh, và có th đọđược tâm ca chúng sinh - túc mng và tha tâm). Nói đức Phật là bậc Toàn Tri có nghĩa là Ngài biết được tất cả mọi thứ. Ví dụ như Ngài có thể đếm được số cát của sông Hằng một cách chính xác hoặc có thể biết được có bao nhiêu nguyên tử trong toàn bộ vũ trụ này.
Những phẩm tánh của một vị Phật là bất khả tư  nghì cả về mọi phương diện thân, khẩu, ý. Có vị Bồ Tát Shug Chang muốn biết thế giới của một vị Phật rộng lớn thế nào. Ngài cứ đi lên mãi lên mãi nhưng thấy cõi của đức Phật đó không bao giờ kết thúc và không hề có giới hạn. Một vị Bồ Tát khác là Moungal Putra muốn kiểm tra xem giới hạn về khẩu của một vị Phật là như thế nào; Ngài đi qua rất nhiều cõi Phật để xem đi tới đâu sẽ không còn nghe được tiếng nói của vị Phật ấy thì thấy không có nơi nào là không nghe thấy tiếng nói của vị Phật đó. Có một vị Bồ Tát muốn kiểm tra xem khả năng trí tuệ của một vị Phật là như thế nào và, tương tự như vậy, Ngài cũng không thể nào đo lường được khả năng đó. Nếu như trong một đống lửa có rất nhiều mẩu than, một vị Phật có thể lấy từng mẩu than trong đống lửa ra và chỉ rõ từng mẩu than đó thuộc về cây nào. Ví như có một người chủ trang trại tập hợp thóc từ rất nhiều những cánh đồng lại thành một đống thóc rất lớn. Một vị Phật có thể lấy ra một hạt thóc bất kỳ từ đống thóc đó và chỉ ra hạt thóc này thuộc về cánh đồng nào, mùa gặt nào một cách chính xác.

Khi chúng ta quán chiếu về năng lực của Pháp thì điều đầu tiên chúng ta thấy là sức mạnh gia trì gia hộ. Khi tu đúng chánh Pháp chúng ta sẽ không bao giờ bị đọa xuống các cõi thấp, đó chính là năng lực cứu độ của Pháp. Pháp giống như một viên thuốc kì diệu giúp  ta thoát khỏi tham ái, là cội nguồn của những ô nhiễm khác. Từ tâm tham sinh ra tâm sân, si, mạn, đố - tất cả là ngũ độc khiến chúng ta trôi lăn trong luân hồi sinh tử và chịu đau khổ. Như vậy khi quán chiếu giá trị của Pháp ta tập trung vào sức mạnh giải thoát của Pháp, là khả năng đoạn diệt tham, sân, si, mạn, đố.

Khi quán chiếu sức mạnh của Tăng - những người đi theo con đường Đức Phật đã chỉ, đã thực sự tu hành trong nhiều kiếp và đạt tới giác ngộ viên mãn - ta nghĩ tới phẩm hạnh của các vị Đạo sư. Các vị Đạo sư là những bậc thầy đã chứng ngộ, các ngài có đủ năng lực để cứu độ chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường giác ngộ, giải thoát. Từ “Konchog” trong tiếng Tạng hay được tụng, “Kon”  nghĩa là “hiếm” (rare) nên rất quý, “Chog” nghĩa là “Tâm Linh”. “Konchog” là vô cùng quý hiếm và cao quý nhất trong vũ trụ này. Chữ này có ý nghĩa rất sâu xa, chữ “ Kon” (quý hiếm ) - nói khả năng xuất hiện trong cuộc sống, trong vũ trụ là rất hiếm, rất hy hữu. “Quý hiếm” còn có nghĩa là nó không có chút tỳ vết, không chút nhiểm ô, mà hoàn toàn trong sáng, hoàn toàn thanh tịnh. Vì phẩm tánh các ngài trong sáng, thanh tịnh, quý báu như vậy nên Tam Bảo ví như món trang sức - là cái làm đẹp cho thế giới, vũ trụ này. Điều trân quý nhất của Tam Bảo là có sức mạnh, năng lực dồi dào để gia trì bảo hộ cho chúng ta và cứu chúng ta thoát khỏi luân hồi sinh tử. Khi đã quy y Tam Bảo  ta sẽ được sự gia hộ không hư dối như vậy.

Khi chúng ta đã thệ nguyện thì phải giữ giới. Khi đã quy y đức Phật rồi thì không được quy y các vị thần, vị thánh khác như thần Shiva, Đế thiên Đế thích hay các vị thần bản địa. Vì họ dẫu là những vị thần nhiều năng lực nhưng họ vẫn chưa thoát được luân hồi sinh tử, không có khả năng giúp  ta đến giác ngộ giải thoát.
Khi đã quy y Pháp, tất cả những gì chúng ta làm đều phải xét đoán. Nếu hợp với chánh Pháp thì chúng ta hãy làm, còn không hợp với chánh Pháp thì cương quyết từ chối.

Khi đã quy y Tăng, chúng ta không nên kết bạn với những người không tốt hoặc những người mà từ họ chúng ta chịu những ảnh hưởng không tốt.

Khi chúng ta đã quy y Phật rồi thì các hình ảnh Đức Phật như ảnh, tượng … chúng ta phải trân quý như chính Đức Phật vậy. Chúng ta nên để ở những nơi cao và bảy tò lòng kính ngưỡng.
Khi chúng ta quy y Pháp thì tất cả hình ảnh của Pháp như kinh sách chúng ta phải hết sức trân quý. Đức Phật dạy rằng khi viên tịch rồi thì Ngài sẽ xuất hiện lại dưới hình ảnh của kinh sách. Vì vậy kinh sách có thể xem là hình ảnh đức Phật hay hóa thân của đức Phật. Vì vậy kinh sách phải
đặt ở nơi cao không được đặt ở dưới đất, không dẫm lên hoặc không bước qua. Khi dùng cũng phải nâng niu.

Khi chúng ta quy y Tăng là quy y Tăng đoàn Đại Thừa vị vậy cho nên các hình ảnh của tăng đoàn đại thừa như mầu đỏ và mầu vàng y áo của Tăng chúng ta phải trân quý.

Khi quy y Phật chúng ta phải cúng dường đều đặn, ví dụ những ngày thiêng liêng trong một năm hay một tháng, như ngày sinh các vị Phật, ngày nhập niết bàn, ngày đức Phật chuyển pháp luân, ngày đức Phật thị biến thần thông, ngày sinh ngày mất của các vị đạo sư dòng truyền thừa… Vào các ngày này chúng ta tu tập thì công đức sẽ tăng trưởng vô cùng.

http://drikungvn.org/index.php?option=com_content&view=article&id=435%3Abai-ging-ngondro-drikungt&catid=99%3Abai-ging-sonam-jorphel-rinpoche&Itemid=587&lang=vi&limitstart=5