Chapter
3
|
Sixteen Attributes of the Four Truths
The
four truths of the āryas (Pāli: ariyas), commonly known as the four
noble truths, form the framework for understanding all of the
Buddha’s teachings. Contemplating them deeply motivates us to seek
liberation and enables us to understand how the practices we do lead
to liberation. Both the Pāli and Sanskrit traditions speak of
sixteen attributes of the four truths. Although the list of the
sixteen differs in the two traditions and there are differences in
their subtle meaning, their overall meaning is similar.
CHƯƠNG
3:
MƯỜI
SÁU THUỘC TÍNH CỦA BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ
BỐN
CHÂN LÝ CAO QUÝ (Pali: ariyas), thường được biết là tứ
diệu đế, hình thành khuôn khổ cho việc hiểu biết toàn
bộ giáo lý của Đức Phật. Quán chiếu những điều này
một cách sâu sắc động viên chúng ta tìm cầu giải
thoát và có thể làm cho chúng ta thấu hiểu vấn đề
những sự thực tập mà chúng ta tiến hành hướng đến
sự giải thoát như thế nào. Cả truyền thống Pali và
Sanskrit đều nói về mười sáu thuộc tính của bốn chân
lý này. Mặc dù danh sách mười sáu điều này khác nhau
trong hai truyền thống và có những sự khác biệt trong ý
nghĩa vi tế, nhưng ý nghĩa tổng quát thì tương tự.
Sanskrit
Tradition Vasubandhu’s Abhidharmakośa and Dharmakīrti’s
Pramāṇavārttika explain that each of the four truths has four
attributes that counteract four distorted conceptions about that
truth. The sixteen attributes explain the truths according to their
different functions and demonstrate the existence of liberation and
the method to attain it.
TRUYỀN
THỐNG SANSKRIT
A
tỳ đạt ma Câu xá luận của Thế Thân và Thích Lượng
Luận của Pháp Xứng giải thích rằng mỗi chân lý có
bốn thuộc tính tương ứng với bốn nhận thức điên
đảo về chân lý ấy. Mười sáu thuộc tính giải thích
những chân lý phù hợp với những chức năng khác nhau và
hiển bày sự tồn tại của sự giải thoát và phương
pháp để đạt đến giải thoát.
Four
Attributes of True Duḥkha
True
duḥkha, or the truth of duḥkha (dukkha-sacca, duḥkha-satya), is
the polluted aggregates—body, feelings, discriminations, volitional
factors (compositional factors), and consciousness. “Polluted”
means under the control of afflictions—especially ignorance—and
karma. Internal true duḥkha is in the continuum of the person and
includes our polluted bodies and minds. External true duḥkha
includes the things in our environment that we use and enjoy.
Bốn
Thuộc Tính về Khổ Đế – Chân Lý về Khổ
Khổ
đế hay chân lý về khổ (dukkha-sacca, duhkha-satya), là
những tập hợp uẩn nhiễm ô :
-
Sắc: thân thể.
-
Thọ: những cảm giác.
-
Tưởng: những sự phân biệt.
-
Hành: hành động do ý muốn, những nhân tố thuộc ý chí,
những nhân tố duyên hợp
-
Thức.
“Nhiễm
ô” có nghĩa là ở dưới sự khống chế của phiền não
vọng tưởng – đặc biệt là si – và nghiệp chướng.
Khổ đế nội tại ở trong sự tương tục của con người
và bao gồm những thân thể và những tâm thức nhiễm ô.
Khổ đế ngoại tại bao gồm trong môi trường của chúng
ta mà chúng ta sử dụng và thụ hưởng.
Our
physical and mental aggregates are specified as examples of true
duḥkha because they are the direct product of afflictions and
karma. In addition, they form the basis of designation of the I or
self. “Self” has different meanings, depending on the context:
(1) The “self” in the fourth attribute refers to the object of
negation by the wisdom realizing reality. The object of negation may
refer to a permanent self or soul, a self-sufficient substantially
existent person, or the inherent or independent existence of all
phenomena as in “all phenomena are empty of self” or “the
selflessness of persons and phenomena.” Here “selfless” does
not mean the opposite of selfish; it means “not self.” (2) “Self”
can refer to the conventionally existent person, or I, who walks,
meditates, and so forth.
Những
tập hợp uẩn vật chất và tinh thần được chỉ rõ như
những thí dụ về khổ đế bởi vì chúng là sản phẩm
trực tiếp của những phiền não và nghiệp chướng. Thêm
nữa, chúng hình thành căn bản cho sự mệnh danh của cái
tôi hay tự ngã. “Tự ngã” có những ý nghĩa khác nhau,
tùy thuộc vào phạm trù:
(1)
“Tự ngã” trong thuộc tính thứ tư liên hệ đến đối
tượng của sự phủ định bởi tuệ trí chứng ngộ
thực tại. Đối tượng của sự phủ định có thể liên
hệ đến một tự ngã thường còn hay linh hồn, một con
người tự tồn tại về thực chất, hay sự tồn tại cố
hữu, độc lập của tất cả mọi hiện tượng như trong
“tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng tự ngã”
hay “sự vô ngã của những con người và những hiện
tượng” (nhân vô ngã và pháp vô ngã). Ở đây “vô
ngã” không có nghĩa là sự đối lập của vị ngã, hay
vị kỷ; nó có nghĩa là “ngã không, hay không có ngã”.
(2)
“Tự ngã” có thể liên hệ đến con người tồn tại
một cách quy ước, hay Tôi, người đi bộ, hành thiền,
v.v… và v.v…
1.
The polluted aggregates are impermanent (anicca, anitya) because they
undergo continuous momentary arising and disintegration.
Understanding
this dispels the distortion believing impermanent things are
permanent. “Impermanent” here means changing moment by moment.
All conditioned phenomena undergo change, disintegrating from what
they were and becoming something new. Coarse change occurs when a
thing ceases: a person dies, a chair breaks. Subtle change occurs
moment by moment—it is a thing’s not remaining the same from one
instant to the next.
1-
Những tập hợp uẩn nhiễm ô là vô thường (anicca,
anitya) vì chúng trải qua sự sinh và diệt liên tục không
ngừng.
Việc
thấu hiểu điều này xua tan sự tin tưởng điên đảo
rằng những thứ vô thường là thường. “Vô thường”
ở đây có nghĩa là thay đổi từng thời khắc. Những
hiện tượng duyên sanh trải qua sự thay đổi, hoại diệt
từ những gì chúng là và trở thành điều gì đó mới.
Sự thay đổi thô phù xảy ra khi một vật chấm dứt: một
người chết, một cái ghế gảy. Sự thay đổi vi tế xảy
ra từng thời khắc – đó là một vật không duy trì
giống nhau từ thời khắc này đến thời khắc kế tiếp.
Our
senses observe coarse impermanence. However, for something such as
our body to be born and cease in this obvious way, there must be a
more subtle process of change taking place each moment. Without it,
the coarse, observable change from childhood to old age could not
occur.
Những
giác quan của chúng ta quán sát sự vô thường thô phù.
Tuy nhiên, vì những thứ nào đó như thân thể chúng ta
được sinh ra và chấm dứt trong cách rõ ràng này, thế
nên phải có một tiến trình thay đổi vi tế hơn xảy ra
trong từng thời khắc. Không có nó, sự thay đổi thô
phù, có thể quán sát từ thời trẻ thơ đến lúc tuổi
già không thể xảy ra.
Almost
all Buddhists accept that the moment a thing comes into being, it has
the nature of disintegrating simply by the fact that it was produced
by causes. It is not the case that a cause produces something, that
thing remains unchanged for a period of time, and then another
condition causes its cessation. Rather, the very factor that causes
something to arise also causes it to cease. From the very first
moment of a thing’s existence, it has the nature of disintegrating.
Momentariness indicates that arising and ceasing are not
contradictory but are two attributes of the same process.
Hầu
hết mọi những Phật tử thừa nhận rằng thời khắc
một vật được hình thành, thì nó cũng có bản chất
của sự hoại diệt đơn giản bởi sự kiện rằng nó
được sản sinh bởi những nguyên nhân. Không phải là
trường hợp một nguyên nhân sản sinh vât gì đó, thì
vật đó sẽ duy trì không thay đổi trong một khoảng thời
gian, và sau đó một điều kiện khác làm nó chấm dứt.
Đúng hơn, chính nhân tố làm vật gì đó sinh ra cũng làm
cho nó chấm dứt. Ngay chính thời khắc một vật hiện
hữu, thì nó cũng có bản chất của hoại diệt. Tính
nhất thời chứng tỏ rằng việc sinh ra và chấm dứt
không mâu thuẩn nhau nhưng là hai thuộc tính của cùng một
tiến trình.
The
present is insubstantial. It is an unfindable threshold between the
past (what has already happened) and the future (what is yet to
happen). While we spend a great deal of time pondering the past and
planning for the future, neither of them is occurring right now. The
only time we ever live is in the present, but the present is elusive,
changing in each nanosecond. We cannot stop the flow of time to
examine a fixed present moment.
Hiện
tại là mong manh. Đó là một ngưỡng cửa không thể tìm
ra giữa quá khứ (những gì đã xảy ra) và tương lai
(những gì chưa xảy ra). Trong khi chúng ta dành rất nhiều
thời gian cho quá khứ và dự tính cho tương lai, nhưng
không điều gì trong chúng đang xảy ra ngay bây giờ. Thời
gian duy nhất chúng ta sống là trong hiện tại, nhưng hiện
tại thì khó nắm bắt, thay đổi trong từng thời khắc.
Chúng ta không thể ngăn chặn sự trôi chảy của thời
gian để thẩm tra một giây phút hiện tại cố định.
Understanding
impermanence is a powerful antidote to harmful emotions based on
grasping impermanent things—our dear ones, possessions, moods, and
problems—as permanent. Do not fall into nihilism thinking that
nothing is worthwhile because it will change. Rather, because things
are transient, attachment and anger toward them is impractical.
Impermanence also means that when we create the causes, our positive
qualities such as love, compassion, and altruism will grow.
Việc
thấu hiểu vô thường là một sự đối trị đầy năng
lực đối với những cảm xúc tổn hại căn cứ trên
việc chấp trước vào những thứ vô thường – những
người thân, sở hữu, tình cảm, và những vấn nạn của
chúng ta – như thường hằng. Không rơi vào chủ nghĩa hư
vô với việc nghĩ rằng không có gì đáng giá vì nó sẽ
đổi thay. Đúng hơn, vì mọi vật là tạm bợ nhất thời,
thế nên dính mắc và sân hận đối với chúng là không
thực tế. Vô thường cũng có nghĩa là khi chúng ta tạo
nên những mục tiêu, những phẩm chất tích cực của
chúng ta như từ ái, bi mẫn, và vị tha sẽ lớn mạnh.
The
Pāli suttas describe impermanence as “arising and passing away.”
Occasionally, they speak about “knowing things as they arise, as
they are present, and as they pass away,” outlining three phases:
arising, changing while abiding, and disintegrating. The Abhidhamma
agrees with this formalization. Meditators focus on the sutta
presentation of arising and passing away and, within that, especially
on passing away because that forcefully highlights impermanence.
Practicing mindfulness, meditators pay close attention to physical
and mental processes, coming to see that what appear to be unified
objects or events are in fact processes that arise and cease in each
moment due to causes and conditions. As mindfulness deepens, subtle
impermanence is seen clearly with direct experience.
Những
kinh điển Pali diễn tả vô thường như “sinh khởi và
biến mất.” Đôi khi họ nói vè “sự hiểu biết mọi
vật như chúng sinh khởi, như chúng hiện hữu, và như
chúng biến mất,” phát thảo ba mệnh đề: sinh khởi,
thay đổi trong khi tồn tại, và hoại diệt. Vi diệu pháp
đồng thuận với hình thức này. Các thiền giả tập
trung vào sự trình bày của kinh điển về sự sinh khởi
và biến mất, và trong ấy, đặc biệt về biến mất bởi
vì điều đó nhấn mạnh rõ rệt tính vô thường. Việc
thực hành chính niệm, thiền giả chú tâm vào tiến trình
vật chất và tinh thần, đi đến thấy rằng những gì
xuất hiện để hợp nhất thành đối tượng hay sự kiện
trong thực tế là những tiến trình vốn sinh khởi và
chấm dứt trong từng thời khắc qua những nguyên nhân và
điều kiện. Khi chính niệm sâu xa hơn, tính vô thường
vi tế được thấy một cách rõ ràng với kinh nghiệm
trực tiếp.
Seeing
arising dispels annihilation—the notion that things do not exist at
all or that the continuity of the person and of the effects of karma
totally stop at death. Seeing disintegration dispels eternalism—the
notion that people and things have a substantial, permanent, eternal
reality.
Việc
thấy sự sinh khởi xua tan chủ nghĩa hư vô (đoạn kiến)
– quan điểm cho rằng mọi vật hoàn toàn không tồn tại
hay sự tương tục của con người và ảnh hưởng của
nghiệp hoàn toàn chấm dứt với sự chết. Việc thấy sự
hoại diệt xua tan chủ nghĩa trường tồn (thường kiến)
– quan điểm cho rằng con người và mọi vật là một
thực thể thật sự, thường còn, vĩnh cửu.
2.
The polluted aggregates are unsatisfactory (dukkha, duḥkha) because
they are under the control of afflictions and karma.
Understanding
this counteracts the distorted thought holding things that are by
nature unsatisfactory to be blissful. Due to being under the control
of afflictions and karma, our aggregates are subject to three types
of duḥkha. The duḥkha of pain includes painful physical and
mental feelings that all sentient beings consider suffering. The
duḥkha of change includes happy feelings that are polluted because
they are unstable, do not last, and leave us dissatisfied. Any
pleasurable activity, pursued continuously, eventually becomes
uncomfortable. The duḥkha of pervasive conditioning is the fact
that our aggregates are under the control of afflictions—ignorance
in particular—and karma.
2-
Những tập hợp uẩn nhiễm ô là không toại ý (dukkha,
duhkha) bởi vì chúng ở dưới sự khống chế của phiền
não và nghiệp chướng.
Việc
thấu hiểu điều này làm mất tác dụng của suy nghĩ
điên đảo chấp rằng mọi vật vốn không toại ý là
hạnh phúc. Qua việc ở dưới sự khống chế của phiền
não và nghiệp chướng, những tập hợp uẩn của chúng
ta là đối tượng của ba loại khổ. Khổ của đau đớn
kể cả đau đớn thân thể và cảm giác tinh thần mà tất
cả mọi chúng sanh được xem là đau khổ (khổ khổ).
Khổ của thay đổi kể cả những cảm giác sung sướng
vốn là nhiễm ô bởi vì chúng không ổn định, không bền
lâu, và để lại cho chúng ta sự không hài lòng. Bất cứ
hành vi thú vị nào, nếu theo đuổi liên tục, cuối cùng
sẽ trở thành khó chịu (hoại khổ). Khổ của điều
kiện cùng khắp (hành khổ), đó là sự kiện những tập
hợp uẩn của chúng ta ở dưới sự khống chế của
phiền não – đặc biệt là si hay vô minh – và nghiệp
chướng.
While
we all want happiness, it eludes us because our body and mind are
under the control of afflictions and karma. Understanding that
saṃsāric phenomena are unsatisfactory, we turn away from seeing
them as the source of lasting bliss and joy, and we release
unrealistic expectations of them. Seeing that clinging to saṃsāric
things is useless and frustrating, we relinquish clinging in favor of
practicing the path and actualizing true cessations.
Trong
khi tất cả chúng ta muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc lẫn
tránh chúng ta vì thân thể và tâm thức chúng ta ở dưới
sự khống chế của phiền não và nghiệp chướng. Việc
thấu hiểu rằng những hiện tượng luân hồi là không
toại ý, thì chúng ta sẽ không còn nhìn chúng như nguồn
gốc của hạnh phúc và niềm vui, và chúng ta sẽ từ bỏ
những mong đợi không thực tế về chúng. Việc thấy bám
víu vào những thứ luân hồi là vô ích và chướng ngại,
thì chúng ta sẽ từ bỏ việc bám víu nhằm để ủng hộ
việc thực hành trên con đường tu tập và thực chứng
diệt đế – chân lý về sự chấm dứt.
3.
The polluted aggregates are empty (suñña, śūnya) because of not
being a permanent, unitary, and independent self.
This
understanding counteracts the distortion believing the body, which is
unclean, has an impeccable possessor.
3-
Những tập hợp uẩn là trống rỗng (suñña, śūnya) do
bởi không là một tự ngã thường còn, thống nhất, và
độc lập.
Sự
thấu hiểu này đối lập với niềm tin điên đảo rằng
thân thể, vốn bất tịnh, có một người sở hữu hoàn
hảo.
Theravāda,
Yogācāra, and Madhyamaka tenets have some similar and some
different ideas about the meaning of the third and fourth attributes.
An explanation that all Buddhist schools accept is that “empty”
refers to the absence of a permanent, unitary, independent self or
soul that is a different entity from the aggregates. In this context
“permanent” means eternally unchanging, not produced or
destroyed. “Unitary” indicates not depending on parts but being
one monolithic whole. “Independent” refers to not depending on
causes and conditions.
Giáo
lý của Thượng tọa bộ (Theravāda), Duy thức tông
(Yogācāra), và Trung quán tông (Madhyamaka) có một số tương
đồng và một số khác biệt về ý nghĩa của thuộc tính
thứ ba và thứ tư. Một giải thích mà tất cả các
trường phái Phật giáo chấp nhận là “sự trống rỗng”
liên hệ đến sự vắng mặt của một tự ngã thường
còn, thống nhất, độc lập hay linh hồn vốn là một
thực thể tồn tại khác biệt với những tập hợp uẩn.
Trong phạm trù này “thường còn” có nghĩa là sự không
thay đổi vính viễn, không sinh hay diệt. “Sự thống
nhất” biểu thị cho sự không lệ thuộc vào những phần
tử mà là một tổng thể nguyên vẹn. “Độc lập”
liên hệ đến việc không lệ thuộc vào nhân duyên (những
nguyên nhân và điều kiện).
4.
The polluted aggregates are selfless or not-self (anattā, nairātmya)
because they lack a self-sufficient substantially existent self.
Understanding
this opposes the distortion grasping that the aggregates, which lack
a self-sufficient substantially existent self, are such a self. The
explanation accepted by all Buddhists glosses selfless as the absence
of a self-sufficient substantially existent person. Such a person
would be the same entity as the aggregates, a self that controls the
aggregates like a ruler over his subjects. When we say “I” or “my
body and mind,” we have the impression that there is a self who
owns and dominates the aggregates. We feel this self is not merely
imputed on the aggregates. Here “merely imputed” means the person
cannot be identified without identifying something else such as the
aggregates.
4-
Những tập hợp uẩn là vô ngã hay không có ngã (anattā,
nairātmya) vì chúng không có một tự ngã tồn tại độc
lập một cách chắc thật.
Việc
thấu hiểu điều này đối trị với sự chấp thủ rằng
những tập hợp uẩn, vốn không có sự tồn tại độc
lập chắc thật, là một tự ngã như vậy. Sự giải
thích được chấp nhận bởi tất cả các trường phái
Phật giáo giải thích vô ngã như sự vắng mặt của một
người tồn tại độc lập chắc thật. Một người như
vậy sẽ hoàn toàn giống như những tập hợp uẩn, một
tự ngã điều khiển những tập hợp uẩn giống như một
kẻ thống trị đối với những đối tượng của ông
ta. Khi chúng ta nói “tôi” hay “thân thể và tâm thức
của tôi” thì chúng ta có ấn tượng rằng có một tự
ngã làm chủ và thống trị những tập hợp uẩn. Chúng
ta cảm thấy tự ngã này không đơn thuần là quy cho những
tập hợp uẩn. Ở đây “sự quy cho đơn thuần” có
nghĩa là con người không thể được nhận ra mà không
nhận diện điều gì khác hơn là những tập hợp uẩn.
In
the Pāli tradition, impermanent, dukkha, and not-self are known as
the three characteristics of things conditioned by ignorance.
Meditating on them with insight is the core of the path. In the
Sanskrit tradition, impermanent and duḥkha are realized first, then
meditators focus on selflessness and emptiness together with
bodhicitta.
Trong
truyền thống Pali, vô thường, khổ, và vô ngã được
biết như ba đặc trưng của mọi vật bị quyết định
bởi vô minh (si). Hành thiền về chúng với tuệ giác là
cốt lõi của con đường tu tập. Trong truyền thống
Sanskrit, vô thường và khổ được nhận diện trước,
sau đó thiền giả tập trung vào vô ngã và tánh không
cùng với tâm bồ đề (bodhicitta).
The
Yogācāra school accepts the person as being empty and selfless. It
also accepts the selflessness of other phenomena in that they are
empty of being a different nature from the consciousness perceiving
them and are empty of existing by their own characteristics as the
referent of a term.
Trường
phái Duy thức (Yogācāra)
chấp nhận con người như trống rỗng và vô ngã. Họ
cũng chấp nhận vô ngã của những hiện tượng khác
trong ấy chúng trống rỗng sự hiện hữu một bản chất
khác biệt với thức nhận thức chúng và trống rỗng sự
tồn tại bởi những đặc trưng của chính chúng như vật
ám chỉ của một thuật ngữ.
Mādhyamikas
follow the meaning of empty and selfless found in the Prajñāpāramitā
sūtras. Here both words refer to the absence of inherent, true, or
independent existence and apply to all phenomena. Inherent existence
is an essence that should be findable in the basis of designation and
should exist without depending on being merely designated by names
and concept. A false mode of being, it is refuted on both persons and
other phenomena. All phenomena are empty and selfless because they
exist dependent on other factors.
Trung
quán tông theo những ý nghĩa của trống rỗng và vô ngã
của kinh điển Bát nhã (Prajñāpāramitā). Ở đây cả hai
chữ liên hệ đến sư vắng mặt của sự tồn tại cố
hữu, chân thật, hay độc lập và áp dụng cho tất cả
mọi hiện tượng. Sự tồn tại cố hữu là một bản
chất vốn phải tìm thấy được trong căn bản của sự
quy cho (mệnh danh) và phải tồn tại mà không lệ thuộc
vào sự hiện hữu đơn thuần được quy cho bởi những
tên gọi và nhận thức. Một sự hiện hữu giả tạo, nó
bị bác bỏ trên cả con người và những hiện tượng
khác. Tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng và vô
ngã bởi vì chúng tồn tại lệ thuộc vào những nhân tố
khác.
To
tie these four attributes together, our body and mind change moment
by moment; this is their nature. Our aggregates are controlled by
their causes, which are ultimately traced to ignorance. Anything
caused by ignorance is by nature unsatisfactory; it is the duḥkha
of pervasive conditioning. Once we develop this awareness, then no
matter how beautiful, pleasurable, and enticing things appear, we
know they are not worth clinging to. They are empty and selfless.
Để
nối kết bốn thuộc tính này vào với nhau, thân thể và
tâm thức chúng ta thay đổi từng thời khắc; đây là bản
chất của chúng. Những tập hợp uẩn của chúng ta bị
khống chế bởi những nguyên nhân của chúng, vốn căn
bản bắt nguồn tự sự vô minh. Bất cứ điều gì được
sản sinh từ vô minh là có tính chất không hài lòng; nó
là khổ bởi điều kiện cùng khắp (hành khổ). Một khi
chúng ta phát triển sự tỉnh giác này, rồi thì bất chấp
mọi vật xuất hiện là xinh đẹp, sung sướng, và cám dỗ
như thế nào đi nữa, thì chúng ta biết rằng chúng không
đáng để dính mắc. Chúng là trống rỗng và vô ngã.
Reflecting
on these four attributes of true duḥkha is sobering and
dramatically alters our perspective on who we are and what will bring
us happiness, leading us to renounce craving for polluted aggregates
and seek nirvāṇa, true peace. The practice of the four
establishments of mindfulness, which will be described later, is a
powerful method to realize the four attributes of true duḥkha.
Quán
chiếu về bốn thuộc tính này của chân lý về khổ –
khổ đế là đang thức tỉnh và thay đổi một cách ấn
tượng nhận thức của chúng ta về vấn đề chúng ta là
ai và những gì sẽ mang đến hạnh phúc cho chúng ta, hướng
chúng ta từ bỏ tham luyến với những uẩn nhiễm ô và
tìm cầu niết bàn, sự hòa bình chân thật. Sự thực tập
về bốn lãnh vực quán niệm (tứ niệm xứ), sẽ được
trình bày phía sau, là một phương pháp đầy năng lực để
thực chứng bốn thuộc tính của chân lý về khổ.
Four
Attributes of True Origins
True
origins (samudaya-sacca, samudaya-satya) of duḥkha are afflictions
and polluted karma. Karma, or actions, are driven by afflictions such
as attachment and anger, which originate in the fundamental
affliction, ignorance. Ignorance prevents us from seeing the
aggregates are empty and selfless.
Bốn
thuộc tính của tập đế – chân lý về nguồn gốc
Tập
đế hay chân lý về nguồn gốc (samudaya-sacca,
samudaya-satya) của khổ là phiền não và nghiệp nhiễm ô.
Nghiệp, hay hành động, được lèo lái bởi phiền não
chẳng hạn như dính mắc và sân hận, vốn bắt nguồn từ
phiền não căn bản, vô minh. Vô minh ngăn trở chúng ta
thấy những tập hợp uẩn là trống rỗng và vô ngã.
According
to the Pāli tradition, ignorance is a state of unknowing and
obscuration regarding the truth. This ignorance functions in two
ways. As mental darkness, it conceals and obscures the true nature of
phenomena. It also creates false appearances or distortions
(vipallāsa, vaparyāsa)—the four distorted conceptions about true
duḥkha mentioned above. Distortions operate on three levels. First
we perceive things incorrectly. Based on this, we think about them in
a wrong way. This leads to understanding our experience incorrectly.
Understanding the three characteristics clears away these
distortions. Through learning and reflection we gain a correct
conceptual understanding of the three characteristics; through
meditation we gain insight into them.
Theo
truyền thống Pali, vô minh là tình trạng không biết và
chướng ngại liên quan với sự thật. Sự vô minh này thể
hiện chức năng trong hai cách. Như sự tối tăm tinh thần,
nó che dấu và làm mờ tối bản chất thật sự của mọi
hiện tượng. Nó cũng tạo nên những hiện tướng giả
tạo hay điên đảo (vipallāsa, vaparyāsa) – bốn nhận
thức điên đảo về khổ đế được đề cập ở trên.
Những sự điên đảo hoạt động trong ba cấp độ. Thứ
nhất, chúng ta nhận thức mọi vật một cách không đúng
đắn. Căn cứ trên điều này, chúng ta suy nghĩ về chúng
trong một cách sai lầm. Điều này đưa đến sự hiểu
biết kinh nghiệm chúng ta một cách không đúng. Việc thấu
hiểu ba đặc tính xóa tan ba điên đảo này. Qua học hỏi
và quán chiếu chúng ta đạt được một thông hiểu nhận
thức đúng đắn về ba đặc tính; qua thiền tập chúng
ta đạt được tuệ giác trong chúng.
According
to Yogācāra and Madhyamaka, ignorance is not simply a state of
unknowing but is a wrong knowledge that actively grasps things to
exist in a way they do not. According to Prāsaṅgika Mādhyamikas,
whereas persons and phenomena do not exist inherently or under their
own power, ignorance grasps the opposite of reality and holds them as
existing in this way.
Theo
Duy thức tông và Trung Quán tông, vô minh không đơn giản
là một tình trạng không biết mà là một kiến thức sai
lầm chủ động chấp trước mọi vật tồn tại trong một
cách mà chúng vốn không như vậy. Theo Trung quán Cụ duyên
tông (Prāsaṅgika Mādhyamikas), trái lại con người và hiện
tượng không tồn tại một cách cố hữu hay dưới năng
lực của chính chúng, mà vô minh chấp trước sự trái
ngược với thực tế và giữ chúng như tồn tại trong
cách này.
Emotions
such as attachment and anger are rooted in ignorance. The stronger
our grasping an independent I is, the stronger our attachment is to
the concerns of this self. We cling to whatever appears important to
our self and are hostile toward whatever impedes fulfilling the
self’s interests. For example, we see a beautiful item in a shop.
While it is in the shop, we want to possess it. After we buy it and
label it “mine,” we become attached to it. Although the article
remains the same, our emotional reaction to it
changes
by labeling it “mine.” Behind the label “mine” is the belief
in a self whose enjoyment is important. If someone breaks the object,
we become angry. Refuting the I as having independent reality
eliminates our attachment and anger.
Những
cảm xúc chẳng hạn như dính mắc và sân hận cố gốc
rể từ trong vô minh. Càng chấp trước vào một cái tôi
độc lập, chúng ta càng dính mắc với những quan tâm cho
tự ngã này. Chúng ta bám víu vào bất cứ điều gì trông
quan trọng với tự thân của chúng ta và thù địch với
bất cứ điều gì cản trở việc thỏa mãn cho những
quan tâm của tự thân. Thí dụ, chúng ta thấy một vật
xinh đẹp trong tiệm. Trong khi ở trong tiệm, chúng ta muốn
sở hữu nó. Sau khi chúng ta mua nó và đặt nhãn hiệu nó
là “của tôi”, chúng ta trở thành dính mắc với nó
mặc dù đề tài vẫn thế, nhưng phản ứng cảm xúc của
chúng ta đối với nó thay đổi bởi việc đặt nhãn hiệu
nó là “của tôi”. Phía sau nhãn hiệu “của tôi” là
sự tin tưởng trong một tự ngã, sự hường thụ của tự
thân là quan trọng. Nếu người nào làm đổ bể đối
tượng ấy, chúng ta trở thành giận dữ. Phủ nhận cái
tôi như có một thực tại độc lập là xóa tan sự dính
mắc và sân hận của chúng ta.
Craving
(taṇhā, tṛṣṇā), a thirst for the satisfaction of our
desires, is a prominent example of afflictions that are the origin of
duḥkha. Aside from craving things while we are alive, at the time
of death craving stimulates clinging (upādāna), ripening the karmic
seeds that propel another saṃsāric rebirth.
Tham
dục (taṇhā, tṛṣṇā), là nổi khao khát cho sự hài
lòng những tham muốn của chúng ta, là một thí dụ đáng
chú ý của những phiền não là nguồn gốc của khổ
(duḥkha). Bên cạnh tham muốn những thứ trong khi chúng ta
sống, vào lúc lâm chung tham dục kích thích chấp thủ
(upādāna), làm chín muồi những hạt giống nghiệp thúc
đẩy cho một sự tái sanh luân hồi khác.
1.
Craving and karma are the causes (hetu) of duḥkha because they are
its root; due to them duḥkha constantly exists.
Contemplating
that duḥkha derives from craving and karma, we gain deep conviction
that all sufferings have causes—craving and karma. This refutes the
idea that duḥkha occurs randomly or without causes. Rejecting the
law of karma and its effects, some materialists do not believe our
actions have an ethical dimension and live a hedonistic lifestyle,
indulging in sense pleasures with little thought of the long-term
effects of their actions on themselves and others.
1-
Tham dục và nghiệp là những nguyên nhân
(hetu) của khổ bởi vì chúng là gốc rể của nó; qua
chúng khổ tồn tại một cách liên tục.
Quán
chiếu rằng khổ phát sinh từ tham dục và nghiệp, chúng
ta đạt được sự tin tưởng sâu xa rằng tất cả mọi
khổ đau có những nguyên nhân – tham dục và nghiệp
chướng. Điều này phủ nhận ý tưởng rằng khổ xuất
hiện một cách ngẫu nhiên và không có các nguyên nhân.
Việc phủ nhận luật nghiệp báo và ảnh hưởng của nó,
làm một
số nhà duy vật không tin những hành động của chúng ta
có một chiều kích đạo đức và sống theo chủ nghĩa
khoái lạc, nuông chiều
trong những cảm giác khoái lạc ít suy nghĩ đến những
ảnh hưởng lâu dài về những hành vi của họ tác động
trên chính họ và người khác.
2.
Craving and karma are origins (samudaya) of duḥkha because they
repeatedly produce all the diverse forms of duḥkha.
Understanding
this dispels the idea that duḥkha comes from only one cause, such
as a primal substance from which everything originates. If duḥkha
rested on one cause, it would not depend on many other factors. If
cooperative conditions were not needed for a cause to produce a
result, then either that cause would never produce a result or it
would never stop producing a result. If a sprout depended only on a
seed, nothing else would be necessary for the seed to grow, so it
should sprout in the winter. Or, since no other conditions would be
necessary for it to sprout, the warmth in spring would not make it
grow. Because things arise from many causes, they are not predestined
but depend on the coming together of diverse factors.
2- Tham dục và nghiêp chướng là nguồn gốc (samudaya) của khổ vì chúng lập đi lập lại việc sản sinh tất cả những hình thức khác nhau của khổ.
Việc thấu hiểu điều này sẽ xua tan ý tưởng rằng khổ chỉ đến từ một nguyên nhân duy nhất, chẳng hạn như
3.
Craving and karma are strong producers (pabhava, prabhava) because
they act forcefully to produce strong duḥkha.
Understanding
this dispels the notion that duḥkha arises from discordant causes,
such as an external creator, that could not possibly create the world
and the duḥkha in it. Everything sentient beings experience is
created by their minds, by the virtuous, nonvirtuous, and neutral
intentions and the physical and verbal actions they motivate. All
these are karma—intentional actions originating in the minds of
sentient beings. These actions influence what we experience.
Afflictions
and karma bring intense duḥkha, such as those experienced in the
unfortunate realms. Even when ordinary sentient beings act with
kindness free from afflictive intentions, their virtuous karma is
still polluted by ignorance and brings rebirth in saṃsāra. Secure
peace and happiness cannot arise from ignorance or craving.
When
we understand that craving and karma are the actual origins of
duḥkha, we stop blaming others for our problems and accept
responsibility for our actions and experiences. With strong
determination to dispel craving and karma, we become empowered to
change our situation and create the causes for the happiness we want
by learning, reflecting, and meditating on the Dharma.
4.
Craving and karma are conditions (paccaya, pratyaya) because they act
as the cooperative conditions giving rise to duḥkha.
Understanding
that duḥkha depends on both causes and conditions dispels the
notion that the nature of things is fixed. This counteracts the idea
that things are fundamentally permanent but temporarily fleeting. If
duḥkha were permanent and eternal, it could not be affected by
other factors and could not be counteracted. However, when its causes
are eliminated, the resultant duḥkha will not occur. Knowing this
brings resilience to our Dharma practice.
Contemplation
of these four attributes strengthens our determination to abandon
true origins of duḥkha.
Four
Attributes of True Cessations
True
cessations (nirodha-sacca, nirodha-satya) are the cessations of
various levels of afflictions actualized by progressing through the
paths to arhatship and full awakening. Afflictions are of two types:
innate (sahaja) afflictions continue uninterruptedly from one
lifetime to another, and conceptually acquired (parikalpita)
afflictions are learned from incorrect philosophies. The final true
cessation of an arhat, nirvāṇa—eradication of both acquired and
innate afflictions—is the example of true cessations.
1.
Nirvāṇa is the cessation (nirodha) of duḥkha because, being a
state in which the origins of duḥkha have been abandoned, it
ensures that duḥkha will no longer be produced.
Understanding
that attaining true cessation is possible by eliminating the
continuity of afflictions and karma dispels the misconception that
afflictions are an inherent part of the mind and liberation is
impossible. The knowledge that liberation exists inspires us with
optimism and energy to attain it.
2.
Nirvāṇa is peace (santa, śānta) because it is a separation in
which afflictions have been eliminated.
This
attribute counteracts the belief that refined yet still polluted
states, such as the meditative absorptions of the material and
immaterial realms, are cessation. While more tranquil than human
life, these states have only temporarily suppressed manifest
afflictions and have not abandoned innate afflictions from the root.
Not understanding that the cessation of all craving is ultimate
peace, some people remain satisfied with such superior states within
saṃsāra. People convinced of the harm of craving and karma know
that their cessation is lasting peace and joy.
3.
Nirvāṇa is magnificent (panita, praṇīta) because it is the
supreme source of benefit and happiness.
As
total freedom from all three types of duḥkha, true cessation is
completely nondeceptive. No other state of liberation supersedes it;
it is supreme and magnificent. Knowing this prevents thinking that
there is some state superior to the cessation of duḥkha and its
origins. It also prevents mistaking certain states of temporary or
partial cessation as final nirvāṇa. For example, someone in the
desire realm with clairvoyance sees the bliss experienced in the
material realm. But because his clairvoyance is limited, he does not
see the end to that state and mistakes it for lasting liberation.
4.
Nirvāṇa is freedom (nissaraṇa, niḥsaraṇa) because it is
total, irreversible release from saṃsāra.
Liberation
is freedom, or definite emergence, because it is an irrevocable
release from the misery of saṃsāra. This counters the
misconception that liberation is reversible and the ultimate state of
peace can degenerate. Because true cessation is the elimination of
all afflictions and karma, there no longer exists any cause for
rebirth or saṃsāric duḥkha. Once attained, liberation cannot
degenerate.
Contemplating
these four attributes encourages us not to stop partway but to
continue practicing until we attain nirvāṇa.
Four
Attributes of True Paths
The
Pāli tradition describes true paths as the noble eightfold path.
Mādhyamikas say a true path (maggasacca, mārgasatya) is an ārya’s
realization informed by the wisdom directly realizing the emptiness
of inherent existence. True paths exist in the mindstreams of āryas
of all three vehicles. The wisdom realizing emptiness (selflessness)
is the principal true path because it directly contradicts ignorance.
While ignorance grasps inherent existence, the wisdom realizing
emptiness sees the absence of inherent existence. Thus it is able to
completely uproot ignorance and the afflictions stemming from it.
When afflictions cease, polluted karma is no longer created. There is
no further impetus to be reborn in saṃsāra, and liberation is
attained.
1.
The wisdom directly realizing selflessness is the path (magga, mārga)
because it is the unmistaken path to liberation.
This
wisdom leads to liberation. Knowing this counters the misconception
that there is no path that releases us from saṃsāra and gives us
the confidence to practice it. If we believe there is no path, we
will not venture to learn and practice it and will thus remain
trapped in saṃsāra.
2.
The wisdom directly realizing selflessness is suitable (ñāya,
nyāya) because it acts as the direct counterforce to the
afflictions.
The
wisdom realizing selflessness is the correct path because it is a
powerful antidote that directly counteracts self-grasping and
eliminates duḥkha. Understanding this eliminates the misconception
that this wisdom is not a path to liberation. With the knowledge that
it is the path to liberation, we will be eager to cultivate this
wisdom that knows the nature of bondage and release from saṃsāra
just as it is.
3.
The wisdom directly realizing selflessness is accomplishment
(paṭipatti, pratipatti) because it unmistakenly realizes the nature
of the mind.
Unlike
worldly paths that cannot accomplish our ultimate goal, this wisdom
leads to unmistaken spiritual attainments because it is an exalted
wisdom that directly realizes the final mode of existence of the
mind, its emptiness of inherent existence. By doing so, it eradicates
afflictions and accomplishes liberation.
Understanding
this counteracts the misconception that worldly paths, such as the
meditative absorptions of the material and immaterial realms,
eradicate duḥkha. Blissful as they may be, these absorptions do not
secure true liberation. Similarly, the worldly path of extreme
asceticism does not eliminate craving.
4.
The wisdom directly realizing selflessness is deliverance (niyyānika,
nairyāṇika) because it brings irreversible liberation.
Phenomena
lack inherent existence. Inherent existence and non-inherent
existence are mutually exclusive. By realizing the lack of inherent
existence, wisdom can conclusively remove the ignorance grasping
inherent existence. Definitely eliminating all obscurations, this
wisdom does not stop partway but delivers us from saṃsāra
completely so that duḥkha can never reappear. This counteracts the
misconception that afflictions can regenerate and cannot be totally
eradicated. It also counteracts the mistaken notion that while some
paths may cease some attributes of duḥkha, no path can cease it
completely.
Contemplating
these four attributes encourages us to meditate on true paths,
destroy duḥkha and its origins, and actualize final, true
cessation.
Pāli
Tradition
The
Paṭisambhidāmagga, a work ascribed to Sāriputta in the Sutta
Piṭaka, explains the sixteen attributes of the four truths.9
Four
Attributes of True Dukkha The five aggregates as well as all
conditioned phenomena—our home, friends, possessions, reputation,
and so forth—are included in true dukkha. Here “conditioned
phenomena” refers to things under the influence of ignorance and
kamma. The chief attribute of true dukkha is its being oppressive;
the other three attributes demonstrate the way in which the
aggregates and other conditioned things are oppressive, stifling, and
burdensome.
1.
The aggregates are oppressive (pīḷana).
Dukkha
has the meaning of “oppression by arising and passing away.”
Given that each of the five aggregates degenerates, not enduring a
second moment, they are unsatisfactory in nature. Wherever we are
born in the realms of saṃsāra—from the highest deva realm to the
lowest hell—ordinary beings are oppressed by saṃsāric existence,
the aggregates, and the environment.
2.
The aggregates are conditioned (saṅkhata).
The
need to create the causes for a fortunate rebirth is one aspect of
oppression. To be born as a brahmā-world deva, we must create the
cause by attaining jhāna as a human being, which is not easy.
Generosity and ethical conduct are the causes to be born as a
desire-realm deva. When we practice these two with the aspiration for
liberation, the challenges are not experienced as overly burdensome.
But when our aim is a fortunate rebirth, the same practices become
drudgery, because they bring only another saṃsāric rebirth.
Beings
are born in unfortunate realms due to the ten nonvirtues. Acting
unwholesomely brings little pleasure now, and we are usually plagued
by guilt afterward. Furthermore, in that very life we experience
others’ reactions to the harm we inflict.
3.
The aggregates are burning like fire (santāpa).
The
aggregates of the unfortunate realms burn with misery with little, if
any, moments of respite. Even if we have a favorable rebirth, we are
constantly plagued by dissatisfaction. Brahmā-world devas suffer
from the conceit “I am,” wrong views, and other afflictions.
Desire-realm devas burn with passion, self-centeredness, and
clinging. Human beings are oppressed by the intensity of their
afflictions. Just to stay alive, we have to work hard and, even then,
never feel secure. Working sets the stage for engaging in the ten
nonvirtues. Our possessions break or are stolen, our body falls ill.
We long to be loved, appreciated, and respected, but these are never
commensurate to what we do to earn them.
Animals
suffer from being eaten by other animals or by human beings. They
cannot speak up for themselves when hunted, exterminated, or abused.
Hungry ghosts suffer from hunger, thirst, and frustration; hell
beings are tortured by physical pain. For those in unfavorable births
even a little temporal happiness, let alone Dharma happiness, is
difficult to find.
4.
The aggregates are in the nature of change (vipariṇāma).
Having
to die and be reborn repeatedly is wretched for all sentient beings.
Those in fortunate realms leave their comfortable circumstances and
are reborn in realms with more suffering, while beings in unfortunate
realms face enormous difficulties in creating the causes for a
fortunate rebirth. Just having a saṃsāric body ensures loss,
death, and more rebirth.
All
conditioned things are subject to change; nothing remains a second
moment after it arises. With deep mindfulness it is possible to see
with wisdom this rapid change occurring. When we do, it almost seems
as if nothing is there because whatever arises is gone in the next
moment.
Our
aggregates, environments, and enjoyments are burdensome because
initially we must exert great energy to create the causes to attain
them. When we have them, we burn with the afflictions they provoke,
and at the end, we must separate from them amid confusion and
uncertainty. Through deeply contemplating these four attributes of
true dukkha, a strong urge to be free from saṃsāra arises within
us.
Four
Attributes of True Origin
True
origin is responsible for the arising and growth of dukkha. The chief
troublemaker, craving, is of three types: Craving for sensual objects
(kāma taṇhā) desires the six sense objects and the pleasant
feelings that arise due to contact with them. It leads to involvement
in nonvirtuous actions to procure and protect what we desire. Craving
for existence (bhava taṇhā) craves the bliss of the material and
immaterial realms and seeks rebirth there. It causes someone to be
content with attaining the jhānas and not cultivate the wisdom
bringing liberation. Craving for nonexistence (vibhava taṇhā)
believes the cessation of the self at death is peaceful and sublime
and craves for this. In a milder form, it craves the cessation of
whatever we do not like.
Ignorance
and craving work in tandem: ignorance is the first link beginning a
set of dependent arising; craving is the active factor creating kamma
for a new existence. It also ripens that kamma at the time of death.
Both ignorance and craving have no discernible beginning. They were
not created by a supreme being, nor did they arise without causes.
They are conditioned events that arise due to our having ignorance
and craving in previous lifetimes.
1.
Craving accumulates the cause (āyūhana) of dukkha.
By
continually longing for beautiful objects to see, hear, smell, taste,
touch, and think about, craving spurs a frantic search to distract
the mind, numb ourselves from the world, and medicate our pain. In
this way, we never really deal with the heart of our problems.
Usually
we think our suffering is due to not getting what we want. In fact,
it is due to craving: craving causes dissatisfaction. Not seeing that
the problem is within us, we are like a dog with fleas. Unable to get
comfortable in one place, the dog moves to another place thinking
there are no fleas there. Until we free our mind from craving, misery
will follow us around. A mind free from craving is a peaceful mind.
2.
Craving is a constant source (nidāna) of dukkha.
Craving
doesn’t stop when we get what we want. Like drinking saltwater, the
more we get what we crave, the more we crave. We get something new
and, after enjoying it a short time, are once again bored,
dissatisfied, and craving something else. Meanwhile, each moment of
craving creates more latencies of craving, which predispose us to
crave in the future.
3.
Craving brings bondage and unites (saṃyoga) us with dukkha.
Never
wanting to separate from the people, possessions, places, ideas,
entertainment, and accolades we seek, craving unites us with dukkha.
It makes us want to associate with the very things that incite our
longing and feelings of insufficiency. Craving recognition, we
compete with others. If we prove ourselves better, we fear falling
from that status and suffer from the stress of maintaining our
position. If the other person comes out on top, we suffer from envy.
Craving makes it so there is no peace in any situation.
4.
Craving is an obstacle and impediment (palibodha) to freedom from
dukkha.
Craving
prevents us from separating from the things we are attached to.
Looking deeply at our own experience, we see that even when we
fulfill our desires, our mind is not at peace; it is riddled with
fear of losing what we like. In this way craving prevents having a
peaceful mind and impedes us from practicing Dhamma, the one source
of true peace.
While
craving is taken as the prime example of the origin of dukkha in both
the Pāli and Sanskrit traditions, other impediments exist as well.
The Pāli tradition and the Sanskrit Abhidharmakośa discuss the ten
fetters (saṃyojana), mental factors binding us to saṃsāra and
impeding the attainment of liberation. The five lower fetters are
view of a personal identity, deluded doubt, view of rules and
practices, sensual desire (kāmachanda, kāmacchanda), and malice
(vyāpāda). The five higher fetters are desire for existence in the
material realm (rūparāga), desire for existence in the immaterial
realm (arūparāga), conceit (māna), restlessness (uddhacca,
uddhatya), and ignorance (avijjā, avidyā).
The
Pāli tradition and the Abhidharmakośa outline three pollutants
(āsava, āsrava)—deeply rooted, primordial defilements that have
bound us to saṃsāra without respite: the pollutants of sensuality
(kāmāsava, kamāsrava), of existence (bhavāsava, bhavāsrava), and
of ignorance (avijjāsava, avidyāśrava). Pāli Abhidhamma
literature adds a fourth, the pollutant of views (diṭṭhāsava).
Pāli
scriptures contain a list of afflictions (kilesa, kleśa) and
auxiliary afflictions (upakkilesa, upakleśa) that are offshoots of
the root afflictions. There are many overlaps with the list of these
two in the Sanskrit tradition.
The
Sanskrit tradition usually speaks of the chief impediments to
liberation as the six root afflictions: attachment to sensuality
(rāga), anger (paṭigha, pratigha), views (diṭṭhi, dṛṣṭi),
doubt, conceit, and ignorance. With the addition of desire for
existence (bhavarāga), this corresponds to the list of underlying
tendencies (anusaya, anuśaya) in the Pāli tradition, where they are
seen as latent tendencies that enable afflictions to become manifest.
Pāli
commentaries clarify that the fetters and other defilements
(sankilesa, saṃkleśa) exist on three levels. As underlying
tendencies, they are latent potencies in the mind. When manifest
(pariyuṭṭhāna), they actively enslave the mind, and as
motivating forces (vītikkama), they lead to nonvirtuous physical and
verbal actions. When afflictions are at the level of under lying
tendencies and our mind is relatively calm, we may delude ourselves
into thinking we no longer have a problem with a particular
affliction. Our mindfulness relaxes, and soon a full-blown affliction
overwhelms our mind. Unable to suppress this manifest affliction, it
spills over, becoming a motivating force to speak or act in a harmful
manner.
Four
Attributes of True Cessation
Nibbāna
is the true cessation of dukkha and its origins. It is perceived by
the four types of ariyas—stream-enterer, once-returner,
nonreturner, and arahant—who experience the paths and fruits
(magga-phala).
1.
True cessation is freedom from dukkha.
Stream-enterers
enjoy the peace of freedom from the view of a personal identity,
deluded doubt, the view of rules and practices, and other wrong
views. While not free from any new defilements, once-returners have
reduced their sensual desire and malice. Nonreturners are free from
the five lower fetters, and arahants are free from all fetters,
defilements, and pollutants. Arahants first attain nibbāna with
remainder (saupādisesa, sopadhiśeṣa), in which the five polluted
aggregates received at birth remain, but when they die and those
aggregates are forever forsaken, nibbāna without remainder
(anupādisesa, anupadhiśeṣa) is attained.
2.
True cessation is secluded from disturbance (paviveka).
Unlike
ordinary beings who are plagued by defilements and whose rebirths
fluctuate from the hells to the immaterial realm, the four ariyas are
free from these disturbances. Their minds become progressively more
peaceful until liberation is attained.
3.
True cessation is the deathless (amata).
True
cessations do not fade or disappear even though the four ariyas still
have the polluted aggregates received at birth. While
stream-enterers, once-returners, and nonreturners may die and be
reborn, their true cessations are never lost and continue on. Nibbāna
is unoriginated and uncreated, free from the vagaries of constant
rebirth and death.
4.
True cessation is unconditioned (asaṅkhata).
Conditioned
and impermanent, our unsatisfactory saṃsāric aggregates lead to
constant insecurity and fear. Completely free from this conditioning,
true cessations are genuine peace. The true cessations of the four
ariyas never decline, decay, or cease; they do not need to be
generated anew each day or in each meditation session.
Four
Attributes of True Path
The
noble eightfold path is the true path—a mind directly realizing
nibbāna— that brings about all cessations of dukkha and its
causes. Insight wisdom is generated by meditating on the subtle
impermanence of the aggregates and thereby knowing that the
aggregates are unreliable and unsatisfactory. Because the aggregates
arise and pass away each moment, they cannot be an independent self.
This liberating insight wisdom that sees (passati, paśyati) the
three characteristics—impermanence, dukkha, and
not-self—understands (pajānāti, prajānāti) the five aggregates
(or six sources, eighteen elements, and so forth) as characterized by
the three characteristics. Thus the direct object of insight is the
aggregates, sense sources (sense bases), or so forth, and they are
apprehended in terms of the three characteristics. As this insight
wisdom deepens, a breakthrough to the supramundane occurs, and path
wisdom, which takes nibbāna as its object, arises.
Each
of these eight path factors—right view, intention, speech, action,
livelihood, effort, mindfulness, and concentration—has a mundane
(lokiya) and supramundane (lokuttara) aspect. The mundane aspect is
together with the pollutants and is practiced by those who are not
yet ariyas. It is meritorious and leads to a fortunate rebirth.
Possessed by ariyas, supramundane path factors eradicate different
levels of fetters and lead to liberation. The path is gradual, and
the mundane path factors are cultivated first. When they mature and
when serenity and insight are strong, the eight supramundane path
factors manifest together during a state of samādhi focused on the
unconditioned, nibbāna.
The
Buddha explains each path factor as well as its opposite in the
Mahācattārīsaka Sutta (MN 117).
Wrong
views include believing that our actions have no ethical value or do
not bring results, that there is no continuity of being and
everything ends at the time of death, that other realms of life do
not exist, that liberation is impossible, and that defilements inhere
in the mind.
Mundane
right view is the opposite of these wrong views. It includes knowing
that our actions have an ethical dimension and bring results, that
there is a continuity of being after death, that other realms exist,
that there are holy beings who have actualized the path, and so on.
Supramundane
right view is the faculty of wisdom, the power of wisdom, the
discrimination-of-phenomena awakening factor, and the path factor of
right view in the mindstream of an ariya. Supramundane right view is
the direct penetration of the four truths as well as direct knowledge
of nibbāna.
Wrong
intentions are sensual desire, malice, and cruelty. Mundane right
intentions are renunciation, benevolence, and compassion. Here
renunciation is a balanced mind free from attachment to sense
objects. Benevolence encompasses fortitude, forgiveness, and love.
Compassion is nonviolence. Right intention spurs us to generate right
speech, action, and livelihood and to share our knowledge and
understanding with others. For those following the bodhisatta’s
vehicle, right intention includes bodhicitta.
Supramundane
right intention includes coarse and refined engagement, thought,
intention, and mental absorption in the mindstream of an ariya. Right
view and right intention are included in the higher training in
wisdom.
Wrong
speech is the four nonvirtues of speech: lying, disharmonious
speech, harsh speech, and idle talk. Mundane right speech is
meritorious speech that abstains from those four. Cultivating right
speech requires conscious effort and a strong resolution to speak
truthfully, gently, kindly, and at the appropriate time.
Wrong
actions are killing sentient beings, stealing, and unwise or
unkind sexual behavior. Mundane right action involves abandoning
these three and using our physical energy to preserve life and
protect others’ possessions. For lay practitioners, it entails
using sexuality wisely and kindly; for monastics it involves
celibacy. While taking intoxicants is not included in wrong action,
to develop the noble eightfold path abandoning intoxicants is
essential. Mindfulness is difficult to cultivate even when the mind
is clear, how much more so when the mind is intoxicated.
Wrong
livelihood for monastics includes procuring requisites by means
of flattery, hinting, coercing, giving a small gift to get a big one,
and hypocrisy. It includes inappropriate use of offerings given by
people with faith, for example using them for idle pleasure or
entertainment. For lay practitioners examples of wrong livelihood are
manufacturing or selling weapons; killing livestock; making, selling,
or serving intoxicants; publishing or distributing pornography;
operating a casino; exterminating insects; overcharging customers and
clients; embezzlement; and exploitation of others.
Mundane
right livelihood is abandoning the five wrong livelihoods—
hinting, flattery, bribery, coercion, and hypocrisy—and procuring
requisites truthfully, honestly, and in a nonharmful way. Lay
practitioners should engage in work that contributes to the healthy
functioning of society and the welfare of others. Right livelihood is
also a lifestyle free from the extremes of asceticism and luxury.
Right
speech, action, and livelihood pertain to the higher training in
ethical conduct. Mundane right speech and right action are the seven
virtuous actions of body and speech that are the opposite of the
seven nonvirtuous ones. Supramundane right speech, action, livelihood
are ariyas’ refraining from and abandoning wrong speech, action,
and livelihood and their engaging in right speech, action, and
livelihood.
Mundane
right effort is the four supreme strivings: effort to prevent the
arising of nonvirtues, abandon nonvirtues that have arisen, cultivate
new virtues, and maintain and enhance virtues that are already
present. With right effort we direct our energy away from harmful
thoughts into the development of beneficial qualities and try to live
in a nonviolent and compassionate way. Right effort enables us to
abandon the five hindrances and gain concentration and wisdom.
Through right effort, mindfulness and concentration, which constitute
the higher training in concentration, are accomplished.
Mundane
right mindfulness is the four establishments of mindfulness. In
daily life mindfulness enables us to remember our precepts. In
meditation it attends to the meditation object, enabling us to
discern its distinct characteristics, relationships, and qualities.
In a highly concentrated mind, mindfulness leads to insight and
wisdom.
Supramundane
right effort and mindfulness are these two factors present with
other path factors at the time of realizing nibbāna.
Right
concentration includes the four jhānas. Concentration directed
toward liberation investigates the nature of phenomena with
mindfulness. Right concentration for beginners involves gradually
developing meditative abilities in daily meditation practice.
Supramundane
right concentration is the four jhānas conjoined with wisdom and
the other path factors at the time of perceiving nibbāna. The
supramundane path is a right concentration. In it, all eight path
factors are present simultaneously, each performing its own function.
Right concentration leads to right views, knowledge, and liberation.
The commentary describes right knowledge as a reviewing knowledge
that knows the mind is fully liberated from defilements.
As
the first factor, right view focuses on karmic causality and the
Buddhist worldview, which are essential for people beginning to
practice. Without accepting these at some level, someone may still
benefit from practicing the remaining seven factors, but that benefit
will not be nearly as great as for a person who has right view.
Each
subsequent path factor is connected to the ones before it. Right view
and intention provide the proper foundation for practice. Right
speech, action, and livelihood, which guide our everyday actions, are
practiced first. On that basis, meditation with right effort,
mindfulness, and concentration is cultivated. This leads to
understanding the right view regarding the nature of reality, which
is a deeper level of right view because it focuses on the ultimate
nature and nibbāna. The practice of the noble eightfold path is
common to followers of all three vehicles.
1.
The noble eightfold path leads to release and deliverance (niyyāna).
The
noble eightfold path directly counteracts all fetters and
defilements, releasing us from these.
2.
The noble eightfold path is the cause (hetu) for attaining all true
cessations, especially that of an arahant.
Due
to having practiced the noble eightfold path, from the moment one
becomes an ariya, one enters the stream flowing to liberation. The
thirty- seven aids to awakening continue to develop in this person,
without declining from one existence to the next, until final nibbāna
is attained.
3.
The noble eightfold path realizes and sees (dassana) the four truths.
By
realizing the four truths as they are in their entirety, ariyas see
what ordinary beings are unable to see. They are no longer befuddled,
confused, or indecisive about what to practice and abandon.
4.
The noble eightfold path overcomes all varieties of craving and gives
mastery (ādhipateyya).
Ariyas
never fear losing their attainments; they know insight wisdom and
path wisdom remain firmly in their mindstreams. By practicing the
three higher trainings, ariyas have become masters of themselves.
Through having seen nibbāna, if only for some moments, they have
full confidence in the Dhamma and the attainments of the Buddha and
Saṅgha.
When
someone fully sees with correct wisdom (sammāpaññāya) the three
characteristics or the four attributes of true dukkha, he or she
automatically understands the other twelve attributes of the four
truths.
Wisdom
Publications - Not for Distribution
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét